Cách đây hơn một năm, nhiều báo đăng tin Cục Di sản văn hoá Việt Nam đã phối hợp với Cục Tài sản văn hoá Nhật Bản và trường đại học nữ Chiêu Hoà (Nhật bản) tổ chức hội thảo về việc “bảo vệ làng cổ Đường Lâm”. Mới đây lại có tin là “làng Đường Lâm […], làng cổ đầu tiên VN, chính thức được công bố xếp hạng di tích quốc gia vào ngày 19-5(1). Là người đã từng về Đường Lâm (Sơn Tây) nhiều lần để nghiên cứu, tôi xin góp một vài ý kiến về lối dùng từ thiếu chính xác này hiện nay khá phổ biến ở trong nước.
Theo Bùi Xuân Đính, “làng là đơn vị tụ cư truyền thống của người nông dân Việt, có địa vực riêng, cơ cấu tổ chức, cơ sở hạ tầng, các tục lệ (về cheo cưới, tang ma, khao vọng) thờ cúng riêng, tâm lý tính cách riêng và cả “thổ ngữ” (tiếng làng) riêng, hoàn chỉnh và tương đối ổn định trong quá trình lịch sử”. Cho đến đây, nói chung ta có thể đồng ý với tác giả. Nhưng tôi cho là tác giả đã lầm khi viết thêm: “làng có bộ máy quản lý tức hội đồng kỳ mục (từ 1921 trở đi là hội đồng tộc biểu)”(2), vì như thế là ông đã lẫn lộn làng với xã (hoặc thôn) như là đơn vị hành chính cơ sở.
Trước hết tưởng nên giới thiệu sơ qua các thuật ngữ (tất cả đều là từ Hán – Việt) được dùng để chỉ đơn vị hành chính cơ sở ở Việt Nam thời xưa như ta tìm thấy trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi(3) và nhất là trong Các trấn tổng xã danh bị lãm(4) (CTTXDBL) : khi đọc tác phẩm này, được viết vào khoảng các năm 1810-1813, ta không thể không ngạc nhiên trước số lượng rất lớn của chúng, nên cần định nghĩa cũng như bình luận.
Phường chỉ một làng ở đô thị hay một làng mà phần đông dân chúng cùng làm một nghề (thủ công hay buôn bán). Phường còn được dùng để chỉ một hội ngành nghề.
Phường thuỷ cơ (hay thuỷ cơ) chỉ làng ở trên sông. Vào những năm 1930, theo Pierre Gourou, một làng thuộc loại hình này “chỉ gồm toàn thuyền hay bè ; dân làng sống bằng nghề đánh cá hay vận tải” (1965: 437-442).
Phường tứ chiếng là làng gồm toàn dân tứ chiếng, tức là những người đến từ nhiều nơi nên gốc gác không rõ. Hai thành ngữ trai tứ chiếng và gái giang hồ thường sóng đôi nhau với nghĩa rất xấu.
Giáo phường là làng gồm những gia đình làm nghề ca hát, đàn địch.
Trang chỉ các làng thời xưa vốn là điền trang, trang trại do các ông hoàng, bà chúa, các gia đình quý tộc hay quan lớn lập ra.
Trại: chỉ các làng lúc đầu gồm vài nhà, lều thô sơ để ở tạm do nhu cầu lao động. Chẳng hạn vào đầu thế kỷ XIX, Mông Phụ (Đường Lâm, Sơn Tây) có xóm Trại là nơi nhiều gia đình nông dân đến ở để đi làm ruộng cho gần; hơn một thế kỷ sau, xóm này thành làng Phụ Khang.
Sở: nguyên thuở xưa đây là các sở đồn điền mà dường như Lê Thánh Tông là vị vua đầu tiên đã cho lập vào năm 1481 để phát triển nông nghiệp (Đại Việt sử ký toàn thư, 1968,III: 276)(5).
Châu: làng được lập trên vùng đất bồi ở ven sông.
Vạn: làng chài. Vạn còn chỉ tập hợp những người cùng làm chung một nghề như vạn buôn, vạn xe, vạn cấy…
Giáp: vào đầu thế kỷ XIX, từ này rất ít khi được dùng để chỉ đơn vị hành chính cơ sở, ngoại trừ ở Thanh Hoá và nhất là ở Nghệ An. Phải chăng cách dùng này của từ giáp (với nghĩa là đơn vị hành chính cơ sở) phát xuất từ chính sách của Khúc Hạo vào năm 907 đã đổi hương – do Cao Biền lập ra dưới đời Hàm Thông (860 - 874) – ra giáp(6)? Vấn đề đặt ra là dường như vào thời ấy (các thế kỷ X - XIII) giáp (= hương, tạm gọi là giáp 1) rộng tương đương ít ra với đơn vị tổng (vào thời Khúc Hạo, cả nước – nghĩa là từ khoảng Đèo Ngang trở ra - chỉ có 344 giáp)(7), nên chắc là gồm nhiều xã. Ta cũng có thể nghĩ rằng đôi khi giáp (= xã, tạm gọi là giáp 2) là sự phát triển của giáp 3 (= đơn vị cư trú bên trong xã) do Lý Bân đặt ra vào năm 1419 trong thời Minh thuộc giống như giáp ở Trung Quốc do Vương An Thạch lập ra vào khoảng năm 1074 đời Tống (bảo giáp pháp). Là tổ chức cư trú bên trong của lý (tức là xã hay thôn do lý trưởng cầm đầu), giáp 3 gồm 10 hộ và do giáp thủ điều khiển. Vào thời Minh thuộc chắc có quan hệ mật thiết giữa giáp 3 và xóm hay nói khác đi, giáp 3 có tính cách địa vực: tùy theo số hộ nhiều hay ít, một xóm có thể được tổ chức thành một, hai hay nhiều giáp 3. Với sự phát triển dân số, chắc không ít giáp 3 đã biến thành xã hay thôn: đó có lẽ là trường hợp của làng Đoài Giáp ở Đường Lâm (Sơn Tây). Tiện đây cũng xin thưa là theo tôi, giáp 4 (= tổ chức bên trong của xã , xưa kia đã đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống chính trị, xã hội, tôn giáo của làng xã)(8) có lẽ không phải là biến dạng của giáp 1 (=hương) như một số nhà nghiên cứu đã nghĩ (trong đó dường như có cả nhà dân tộc học Nguyễn Từ Chi), mà là của giáp 3.
Phố: trong từ điển của Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651, từ này chỉ một “con đường có các cửa hàng buôn bán” (de Rhodes, 1991: 602)(9). Hiện nay ở các đô thị miền Bắc, các con đường vẫn được gọi là phố (phố Huế, phố Bà Triệu… ), khác với cách gọi ở miền Nam (đường, đại lộ). Trong tiếng Hán dùng ở Trung Quốc, phố (pù) chỉ có nghĩa là “cửa hàng”. Trong CTTXDBL, ta thấy các tỉnh miền núi Bắc Bộ có rất nhiều phố: 5 ở An Quảng, 6 ở Tuyên Quang, 20 ở Cao Bằng, 40 ở Lạng Sơn. Điều đó chứng tỏ là vào đầu thế kỷ XIX, trao đổi hàng hoá bằng đường bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc được thực hiện chủ yếu thông qua Cao Bằng và nhất là Lạng Sơn. Ở hai tỉnh này, còn có nhiều thị (chợ) và quán được ghi như là các đơn vị hành chính cơ sở. Điều đáng ghi nhận là các tỉnh đồng bằng bao quanh phủ Hoài Đức (thuộc tỉnh Hà Nội sẽ được lập vào năm 1831) chỉ có một phố duy nhất là Tân Hội (nằm trên địa phận của xã Đường Lâm ngày nay).
Ở các tỉnh miền núi, bản làng của các dân tộc ít người thường được gọi là sách hay động. Ngoài ra còn thấy có nhiều từ khác như lũng, xưởng, mỏ, bến, chòm(10) cũng được dùng để chỉ xã thôn.
Ở Nghệ An và Thanh Hoá, ta còn gặp các từ khác nữa: nậu (làng do một nhóm thợ hay lái buôn lập ra), tích (làng của những người làm muối?)(11), đội (làng do một đội lính lập ra?), tộc (làng chỉ do những người cùng một tộc lập ra?), lăng (làng có nhiệm vụ bảo vệ, tu bổ một lăng vua?) và nhất là giáp. Cuối cùng, trong Đại Nam thực lục(12), ta thấy trong số các làng do Nguyễn Công Trứ lập ra vào năm 1838, có 14 lý và 27 ấp. Lý là từ đã được Lý Bân dùng vào năm 1419 ở Đại Việt trong thời Minh thuộc, gồm khoảng 110 hộ có lý trưởng và giáp thủ đứng đầu ĐVSKTT, IV: 8). Còn ấp thì đã xuất hiện trong các thành ngữ thái ấp, thang mộc ấp, thực ấp chỉ các điền trang mà các vua Lý, Trần ban cho các vương hầu. Ở Nam Bộ, ấp thường được dùng để chỉ các làng.
Nhưng hai từ được dùng nhiều nhất là thôn và đặc biệt là xã (hơn 90%). Trên nguyên tắc, ít ra cho đến cuối thế kỷ XIX, xã chỉ một làng lớn và thôn chỉ một làng nhỏ. Nhưng vì một xã có thể được chia thành hai hay nhiều thôn, nên thường có sự lẫn lộn giữa thôn = xã nhỏ và thôn = đơn vị địa vực bên trong xã. Từ đầu thế kỷ XX , việc dùng từ xã để chỉ tất cả các đơn vị hành chính cơ sở trở nên phổ biến(13). Một điều nên lưu ý là trong tiếng Hán dùng ở Trung Quốc thời xưa, từ xã không chỉ đơn vị hành chính cơ sở như ở Việt Nam. Đây là một cách dùng sáng tạo của người Việt, cũng giống như việc dùng từ tổng với nghĩa tương tự từ canton trong tiếng Pháp: nghĩa này cũng không có trong tiếng Trung Quốc.
Trước 1945, nếu phải dùng từ xã hoặc thôn trong các quan hệ chính thức với quan lại, thì trong cuộc sống hằng ngày, người Việt thường dùng từ làng vì nó có thêm một chút gì thân thương, tình cảm hay “cảm xúc” (émotionnel)(14) nếu nói như nhà dân tộc học Nguyễn Từ Chi . Chẳng hạn, các xã Kim Sơn, Chân Tảo, Linh Qui, Giao Tự, Giao Tất, Phú Thị, Tô Khê của tổng Kim Sơn (Gia Lâm, Bắc Ninh) cũng được gọi, theo thứ tự, là làng Then, làng Táo, làng Vụi, làng Chè, làng Keo, làng Sủi, làng To(15). Các làng này đều là “nhất xã nhất thôn”: đây là loại hình phổ biến nhất, chiếm đến 74% các xã ở Bắc Ninh(16) (xem bảng đính kèm). Nhưng khi xã được chia thành hai hay nhiều thôn, thì sự lẫn lộn có thể xảy ra, vì làng lắm khi vừa chỉ xã và vừa chỉ cả các thôn nằm bên trong của xã. Sau đây là một số bằng chứng rút ra từ công trình nghiên cứu của Nguyễn Văn Huyên:
– Xã Bố Hạ (Yên Thế, Bắc Giang) gồm có bốn thôn là Bố Hạ hay làng Dinh, Bố Sơn hay Bo Non, làng Đông hay Đông Kênh, làng Thị hay Bo Chợ(17).
– Xã Thuý Cầu (Lạng Giang, Bắc Giang), dù chỉ có 185 dân, lại gồm đến 11 thôn: Đồng Bài, Đồng Bằng, Đồng Cây, Đồng Hội, Đồng Khanh, Đồng Nội, làng Sanh, làng Ngoài, làng Sai, làng Trong, làng Thị(18).
Như thế, làng chỉ đơn vị cư trú cơ sở mà người dân quê gắn bó về tình cảm: đó có thể là một xã (nếu không chia thành thôn) hoặc một thôn nằm trong xã. Trong trường hợp sau, các thôn thường có đình, miếu (nhiều khi cả chùa)… và một số tập tục riêng, nên có được một bản sắc riêng.
Ngoài ra, cũng nên nói là, theo nghĩa rộng, làng còn được dùng cho các tập thể hay cộng đồng như trong các thành ngữ làng văn, làng thơ, làng chơi, làng bẹp (những người nghiện thuốc phiện).
Như ta biết, sau 1945, chính quyền cách mạng đã lập ra xã (mới), tương đương với tổng thời xưa vì gồm nhiều xã (cũ) nay đều được gọi là thôn. Chẳng hạn xã Đường Lâm là hoá thân của tổng Cam Thịnh: nó gồm 8 thôn trong đó Cam Thịnh, Cam Lâm, Đoài Giáp, Đông Sàng, Mông Phụ và Phụ Khang là những làng cổ. Còn hai làng Hà Tân và Hưng Thịnh vốn là xóm cũ của Đông Sàng và Cam Thịnh; chúng được biến thành thôn cách đây khoảng ba hay bốn mươi năm thôi. Như vậy, ta không thể dùng từ làng để chỉ xã Đường Lâm mà để chỉ 8 thôn nằm bên trong xã này.
Tưởng cũng nên nói thêm rằng, do việc chính quyền cách mạng lập ra xã mới, khi gặp từ xã, lắm khi ta không biết đó là xã (cũ) trước 1945 (thành phần của tổng) hay là xã hiện nay (gồm nhiều thôn hay làng)!(19) Để tránh lẫn lộn, phải chăng nên gọi xã mới là tổng như trước Cách mạng tháng Tám?
Thời xưa, ở đồng bằng Bắc Bộ, rất nhiều tổng mang tên của một làng thành viên (gọi là làng đầu tổng). Thực tiễn đó hiện nay vẫn còn nhưng rất hiếm (như Tả Thanh Oai và Đông Ngạc, hai thôn nổi tiếng nay thuộc thành phố Hà Nội). Trong trường hợp này, ta lại không thể dùng từ làng để gọi cả xã lẫn thôn - thành viên có cùng tên.
Chú thích:
1. Tuổi Trẻ 20/05/2006.
2. Bùi Xuân Đính, “Bàn thêm về mối quan hệ giữa làng và xã qua qui mô cấp xã thời phong kiến”, trong Đinh Xuân Lâm, Dương Lan Hải (chủ biên), Nghiên cứu Việt Nam, một số vấn đề lịch sử kinh tế-xã hội- văn hoá, Hà Nội, nxb Thế Giới, 1998, tr. 97.
3. Xem Nguyễn Trãi toàn tập, Hà Nội, nxb Khoa học Xã hội, 1976, tr. 209-246.
4. Quyển sách này được dịch và xuất bản dưới tên mới : Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra) do Dương Thị The và Phạm Thị Thoa dịch, Hà Nội : Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1981. Từ đây sẽ viết tắt thành CTTXDBL.
5. Từ đây sẽ viết tắt thành ĐVSKTT.
6. Thực ra, theo Đại Việt sử kỷ toàn thư, hương vẫn tiếp tục tồn tại bên cạnh giáp cho đến năm 1297 khi vua Trần Anh Tông lại đổi giáp thành hương.
7. Xem thêm : Nguyễn Tùng, “Tổ chức chính trị và xã hội” trong Mông Phụ, một làng ở đồng bằng sông Hồng, Hà Nội, nxb Văn hoá Thông tin, 2003; Nguyễn Tùng, “Về không gian làng” trong Làng ở vùng châu thổ sông Hồng: vấn đề còn bỏ ngỏ, Hà Nội, Viện Viễn Đông bác cổ, 2002
8. Xem Nguyễn Từ Chi, “Le làng traditionnel au Bắc Bộ, sa structure organisationnelle, ses problèmes” [Làng truyền thống ở Bắc Bộ, cơ cấu tổ chức và các vấn đề], trong Le village traditionnel au Vietnam [Làng truyền thống Việt Nam], Hà Nội, nxb Thế Giới, 1993.
9. Được chụp lại và được Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt và Thái Nguyên dịch sang tiếng Việt.
10. Ví dụ: lũng Lũng Lai (châu Thượng Lăng, Cao Bằng), xưởng Nam Luân (châu Bạch Thông, Thái Nguyên), mỏ Vũ Lăng (huyện Vũ Nhai, Thái Nguyên), bến Câu Vu (huyện Phúc Yên, Tuyên Quang), chòm Hồng Nương (huyện Phúc Yên, Tuyên Quang).
11. Ví dụ: nậu Bàng Vạn (Thanh Chương, Nghệ An) , ngày nay vẫn còn thành ngữ đầu nậu; tích Ly Hà, tích Ngân Tượng (Kỳ Hoa, Nghệ An); đội Cồn Cát, đội Phan Long (Thanh Hà, Nghệ An); tộc Hoàng Nghĩa (Hưng Nguyên, Nghệ An); lăng Chú Lai (Yên Định, Thanh Hoá).
12. Từ đây sẽ viết tắt thành ĐNTL (1970, IX: 123)
13. Xem Nguyễn Văn Huyên, Địa lý hành chính Kinh Bắc. Tableau de géogaphie administrative d’une province vietnamienne: Le Bắc Ninh (ou Kinh Bắc). Hà Nội: nxb Văn Hoá; 1996. Ngô Vi Liễn, Nomenclature des communes du Tonkin [Tên làng xã ở Bắc Kỳ], Hà Nội, Lê Văn Tân, 1928.
14. Nguyễn Từ Chi, sđd, tr. 55.
15. Nguyễn Văn Huyên, sđd, tr. 13.
16. Theo số liệu của Bùi Xuân Đính, sđd, tr.103.
17. Nguyễn Văn Huyên, sđd, tr. 150.
18. Nguyễn Văn Huyên, sđd, tr. 134.
19. Xem Nguyễn Tùng, “Từ tổng đến xã: bản sắc và lãnh thổ”, trong Mông Phụ, một làng ở đồng bằng sông Hồng, Nxb VHTT.
Tạp chí Xưa & Nay