Tam Sơn là một xã thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ở thôn Tam Sơn thuộc xã Tam Sơn, có một người họ Ngô đến định cư từ giữa thế kỷ thứ 15. Trải qua hơn 500 năm, từ một người nay phát triển thành một họ lớn. Cả họ Ngô chỉ có duy nhất một vị đỗ Trạng nguyên, đó là Ngô Miễn Thiệu, đỗ năm 1518, thuộc họ này. Trong họ còn có gần chục vị khác đỗ đại khoa, tức là “một họ có học hành”, nên chắc chắn là có gia phả. Đáng tiếc, do thế sự biến thiên và trách nhiệm của con cháu, phả ký không còn giữ được. Bản phả được viết sớm nhất mà chúng tôi vừa sưu tầm được là bản do Ngô Hữu viết năm Chính Hoà 12 (1691), được lưu giữ ở một họ Ngô trong Thanh Hoá; còn lại thì chỉ được biên soạn vào thời nhà Nguyễn. Chính vì lẽ đó mà hàng chục họ Ngô ở Tam Sơn và vùng lân cận đều nghĩ rằng họ mình từ một nơi nào đó chuyển cư đến, chứ không phải cùng chung một cụ tổ 20 đời.
Về Thủy tổ họ Ngô Tam Sơn
Dòng họ xác định thủy tổ là Ngô Hải Sơn, chúng tôi cho rằng thủy tổ là Ngô Quân Hiên.
Phả chép: Ngô Quân Hiên sinh 2 con trai là Ngô Luân và Ngô Thầm.
Cho đến nay chúng tôi chưa tìm thấy một bản phả hoặc một tư liệu nào cho biết Ngô Luân có con hay không, và nếu có thì hậu duệ của ông ngày nay đang ở đâu. Tuy nhiên về vấn đề này chúng tôi cũng xin có một số ý kiến ở mục III: Tồn nghi về Ngô Luân.
Ngô Thầm đỗ Bảng nhãn khoa Qúi Sửu (1493), Hàn lâm viện thị thư, thái bảo, thành viên Hội Tao đàn, sinh một con trai là Ngô Miễn Thiệu. Ngô Miễn Thiệu đỗ Trạng nguyên khoa Mậu Thìn (1518), sinh 3 hoặc 4 con trai, nhưng gia phả chỉ chép tên hai người đỗ đạt là Ngô Diễn, đỗ Tiến sĩ khoa Canh Tuất (1550) và Ngô Dịch đỗ Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1556).
Cho đến nay chúng tôi cũng chưa tìm thấy một bản phả nào viết về hậu duệ của Ngô Diễn.
Ngô Dịch phả chép tên có hai con là Huyền Sơn và Nghị Trai; nhưng cũng có thể là 4 con.
Ngô Huyền Sơn có một con trai là Ngô Vị, tự An Sơn. Năm 1592, Trịnh Tùng diệt Mạc Mậu Hợp giải phóng Thăng Long, Ngô Vị bị bắt, sau được tha, ông đưa con là Hoa Sơn về Đông Đồ sinh sống. Từ đó con cháu ông định cư ở đây. (Đông Đồ nay thuộc xã Nam Hồng, huyện Đông Anh, Hà Nội).
Ngô Nghị Trai có 3 con trai, hậu duệ của 3 người này ngày nay chủ yếu sống ở xã Tam Sơn, xã Tương Giang, và một số nơi khác ở Thanh Hoá, Bắc Giang...
Theo phả ký và những tư liệu còn lại của họ Ngô Đông Đồ, thì thủy tổ của họ Ngô Tam Sơn là Ngô Hải Sơn. Điều đó được xác nhận từ bia đá dựng tại từ đường họ Đông Đồ. Bia được dựng vào năm Giáp Dần, Tự Đức (1854), văn bia do người trong họ là Ngô Dưỡng Kính soạn. Đây là tư liệu có niên đại sớm nhất, các bản phả biên soạn sau đó, sớm nhất là Đông Đồ Ngô gia phả ký do Ngô Trung Hòa biên soạn vào năm Giáp Ngọ, Thành Thái (1894).
Từ trước cho đến ngày nay, họ Ngô-Tam Sơn nói chung và họ Ngô-Đông Đồ nói riêng đều khẳng định, thủy tổ của dòng họ là một trong 6 con trai “cư biệt quán” của Thanh Quốc công Ngô Khế.
Do nhiều trăm năm quan hệ gia tộc bị gián đoạn, mất liên lạc với đất tổ Đồng Phang (nay thuộc xã Định Hoà, huyện Yên Định, Thanh Hoá), họ Ngô-Tam Sơn cho rằng ngôi mộ tổ ở xứ Lưỡng Ban thôn Tam Sơn là mộ Thanh Quốc công Ngô Khế, nên mộ chí có khắc “Thanh Quốc công tổ mộ thần táng”.
Ngày nay ta đều biết mộ Ngô Khế ở Đồng Phang, đã được con cháu tôn tạo hai lần vào năm 1994 và 2003. Như vậy, ngôi mộ ở xứ Lưỡng Ban thôn Tam Sơn là mộ thủy tổ họ Ngô Tam Sơn. Theo phả ký của dòng họ thì thủy tổ là Ngô Hải Sơn. Hải Sơn sinh Thiền Nho, Thiền Nho sinh Quân Hiên, Quân Hiên sinh Ngô Luân, Ngô Thầm… Theo đó Ngô Luân là tằng tôn Ngô Hải Sơn, huyền tôn Ngô Khế.
Nay xét lại niên biểu, thấy điều đó không đúng.
+ Ngô Luân đỗ Tiến sĩ năm Ất Mùi đời Hồng Đức (1475).
+ Ngô Khế sinh vào giờ Dần, ngày… tháng 9 năm Bính Tý (1426).
Hai niên biểu trên là không thể nghi ngờ. Thế thì, đến năm 1475, Ngô Khế mới 50 tuổi, không thể có hậu duệ 4 đời đỗ Tiến sĩ.
+ Giả định (tuy không thực tế) 4 đời đầu tiên của họ Ngô Tam Sơn có tốc độ sinh dọc 16 (tức là vào lúc 16 tuổi thì thế hệ trước sinh ra thế hệ sau), thì năm sinh của Ngô Luân sẽ là: 1426+3.16=1474. Thế thì đến năm1475, Ngô Luân mới lên 1 tuổi sao đã đỗ tiến sĩ được?
Như vậy, Ngô Luân phải là cháu nội Ngô Khế mới đúng. Thế là theo phả của họ Đông Đồ, từ Ngô Hải Sơn đến Ngô Luân thừa ra 2 đời. Đó là những vị nào?
Căn cứ vào bản phả của Ngô Hữu (tằng tôn Ngô Nghị Trai) viết năm 1691, thì thủy tổ họ Ngô-Tam Sơn là Ngô Quân Hiên. Thế thì Hải Sơn, Thiền Nho là ai? Theo chúng tôi Hải Sơn có thể là tên tự hoặc tên hiệu của Thanh Quốc công Ngô Khế; còn Thiền Nho là tên hiệu của Quân Hiên vì thời gian đầu khi lánh về đây, ông tá túc ở chùa Cảm Ứng trong thôn.