Ngô Kính Thần dỗ Hoàng Giáp khoa Quý Sửu đời Hồng Đức thứ 24 (1493) dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497). Ông được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc và đã nooie tiếng với vế đối đáp với Triều Minh, biểu lộ tinh thần quật cường của dân tộc. Nhà Minh ra vế đối: Nhật hỏa vân yên, bạch đán thiêu tàn Ngọc Thỏ. (Nghĩa là: Mặt trời là lứa, mây là khói, ban ngày thiêu rụi mặt trang) Ngô Kính Thần đối lai: Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc Kim Ô (Nghĩa là: Mặt trăng là cung, sao là tên, chiều tà bắn rụng mặt trời), Từ ý chí kiên cường đó, nhà Minh cho rằng ông có ý chống lại đã tức giận cho bắt giam ông, mãi hơn 10 năm sau mới thả ông về nước. Về quê hương Ngô Kính thần, theo văn bia đặt ở đình thôn Thị xã Xuân Phương do Tiến sĩ khoa Bính Thân (1616) soạn thì Ngô Kính Thần người thôn Triền xã Xuân Hi huyện Kim Hoa phủ Bắc Hà. Theo thư tịch cổ làng Chi Đông do Nguyễn Đình Mỹ, một vị quan văn nổi tiếng triều Mạc biên soạn, thì thời Niên hiệu Hồng Đức Triều Lê, họ Ngô có một Tiến sỹ giữ chức Sĩ chí Chánh thừa sứ. Ngô Kính Thần người làng Chi Đông, ngoài ra còn được chép thuộc làng Xuân Hi. Năm Kỷ Hợi Cảnh Hưng 40 (1779) khi in ấn thì chỉ được chép là làng Xuân Hi.
Nhà Minh ra vế đối: Nhật hỏa vân yên, bạch đán thiêu tàn Ngọc Thỏ.
(Nghĩa là: Mặt trời là lứa, mây là khói, ban ngày thiêu rụi mặt trang)
Ngô Kính Thần đối lai: Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc Kim Ô
(Nghĩa là: Mặt trăng là cung, sao là tên, chiều tà bắn rụng mặt trời),
Từ ý chí kiên cường đó, nhà Minh cho rằng ông có ý chống lại đã tức giận cho bắt giam ông, mãi hơn 10 năm sau mới thả ông về nước.
Về quê hương Ngô Kính thần, theo văn bia đặt ở đình thôn Thị xã Xuân Phương do Tiến sĩ khoa Bính Thân (1616) soạn thì Ngô Kính Thần người thôn Triền xã Xuân Hi huyện Kim Hoa phủ Bắc Hà.
Theo thư tịch cổ làng Chi Đông do Nguyễn Đình Mỹ, một vị quan văn nổi tiếng triều Mạc biên soạn, thì thời Niên hiệu Hồng Đức Triều Lê, họ Ngô có một Tiến sỹ giữ chức Sĩ chí Chánh thừa sứ. Ngô Kính Thần người làng Chi Đông, ngoài ra còn được chép thuộc làng Xuân Hi. Năm Kỷ Hợi Cảnh Hưng 40 (1779) khi in ấn thì chỉ được chép là làng Xuân Hi.