Có lẽ, vì là tương truyền nên không được chính xác. Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ được gọi là trấn là vào thời Tây Sơn, còn trước là lộ. Cũng vậy, Đan Phượng, Nam Xang, cũng chỉ là huyện, chứ chưa bao giờ là phủ. Tên huyện Nam Xang xuất hiện từ thời Lê Trung hưng, khi lập tỉnh Hà Nội vào năm Minh Mạng 12 (1831), thì huyện Nam Xang thuộc phủ Lý Nhân. Đến năm 1890, khi thành lập tỉnh Hà Nam, thì không còn tên huyện Nam Xang nữa. Vậy theo tương truyền trên thì cụ Ngô Quí Cao chỉ đến đây vào thời Tây Sơn - Gia Long? Từ Thủy tổ đến nay mới có 10 đời.
Khảo cứu: Họ Phạm Ngô, thủy tổ Ngô Phúc An, nay xác định là thuộc dòng Hán Quốc công Ngô Lan. Tằng tôn Ngô Phúc An là Ngô Đăng Sỹ “hầu hạ Dương Vương (Trịnh Tạc) lúc còn tiềm để” (Trịnh Tạc ở ngôi chúa từ 1657 đến 1682). Ngô Đăng Sỹ có 10 bà vợ, 17 người con, trong đó có 6 con trai do 6 bà vợ sinh ra. Người con cả Ngô Đăng Châu (con bà vợ thứ 2), tồn nghi con cháu ngày nay là họ Ngô - Cụ Thôn, xã Hà Phú, huyện Hà Trung, Thanh Hoá, đến nay 13 đời. Người con trai thứ 4 do bà vợ thứ 6 sinh ra là Ngô Đăng Lý về sau đổi Phạm Ngô Lý, đến nay 10 đời. Người con trai thứ 6 (út) do bà vợ thứ 10, họ Lê sinh ra là Ngô Đăng Chiêu, thất truyền.
Thủy tổ của chi họ Đỗ Ngoại cũng có tên huý Ngô Đăng Chiêu, cũng có 10 đời. Không rõ đó chỉ là những trùng hợp ngẫu nhiên hay hai người đó là một?
Nay tạm xếp họ Ngô Đỗ Ngoại là hậu duệ Hán Quốc công Ngô Lan coi như một định hướng nghiên cứu.