Ngô Đăng Chiêu Họ Phạm Ngô, thủy tổ Ngô Phúc An, nay xác định là thuộc dòng Hán Quốc công Ngô Lan. Tằng tôn Ngô Phúc An là Ngô Đăng Sỹ “hầu hạ Dương Vương (Trịnh Tạc) lúc còn tiềm để” (Trịnh Tạc ở ngôi chúa từ 1657 đến 1682). Ngô Đăng Sỹ có 10 bà vợ, 17 người con, trong đó có 6 con trai do 6 bà vợ sinh ra. Người con cả Ngô Đăng Châu (con bà vợ thứ 2), tồn nghi con cháu ngày nay là họ Ngô - Cụ Thôn, xã Hà Phú, huyện Hà Trung, Thanh Hoá, đến nay 13 đời. Người con trai thứ 4 do bà vợ thứ 6 sinh ra là Ngô Đăng Lý về sau đổi Phạm Ngô Lý, đến nay 10 đời. Người con trai thứ 6 (út) do bà vợ thứ 10, họ Lê sinh ra là Ngô Đăng Chiêu, thất truyền. Thủy tổ của chi họ Đỗ Ngoại cũng có tên huý Ngô Đăng Chiêu, cũng có 10 đời. Có thể hai người đó chỉ là một.
Họ Phạm Ngô, thủy tổ Ngô Phúc An, nay xác định là thuộc dòng Hán Quốc công Ngô Lan. Tằng tôn Ngô Phúc An là Ngô Đăng Sỹ “hầu hạ Dương Vương (Trịnh Tạc) lúc còn tiềm để” (Trịnh Tạc ở ngôi chúa từ 1657 đến 1682). Ngô Đăng Sỹ có 10 bà vợ, 17 người con, trong đó có 6 con trai do 6 bà vợ sinh ra. Người con cả Ngô Đăng Châu (con bà vợ thứ 2), tồn nghi con cháu ngày nay là họ Ngô - Cụ Thôn, xã Hà Phú, huyện Hà Trung, Thanh Hoá, đến nay 13 đời. Người con trai thứ 4 do bà vợ thứ 6 sinh ra là Ngô Đăng Lý về sau đổi Phạm Ngô Lý, đến nay 10 đời. Người con trai thứ 6 (út) do bà vợ thứ 10, họ Lê sinh ra là Ngô Đăng Chiêu, thất truyền.
Thủy tổ của chi họ Đỗ Ngoại cũng có tên huý Ngô Đăng Chiêu, cũng có 10 đời. Có thể hai người đó chỉ là một.