Tên húy: | NGÔ THẠCH* (THẾ MỸ) CHI VI |
Giới tính: | Nam |
Tình trạng: | Đã mất |
Tên tự: | Đình Trụ, Duy Nhâm |
Tên hiệu: | Nhân Hiên cư sĩ |
Chức vụ phẩm hàm: | Đỗ Cử nhân khoa 1819, Tri phủ Lạng Giang |
Ngày giờ sinh: | 1782 |
Ngày giờ mất: | 1834 |
Hưởng thọ: | 52 |
Bố: | NGÔ DUY VIÊN* (NGÔ TRỌNG KHUÊ - DÒNG THỨ) |
Mẹ: | Bà họ Nguyễn |
STT | Họ tên | Ngày Sinh | Trạng thái |
---|---|---|---|
1 | NGÔ DUỆ* (DUY HUYẾN) CHI I | 1766 | Đã mất |
2 | NGÔ BÍNH* (TRỌNG QUÝNH) CHI II | 1767 | Đã mất |
3 | NGÔ VỊNH (DUY HÒA) CHI III | 1771 | Đã mất |
4 | NGÔ QUẾ* (SỸ GIAI) CHI IV | 1774 | Đã mất |
5 | NGÔ SIÊU* - CHI V | Đã mất | |
6 | NGÔ TRI* (DUY LÝ) CHI VII | 1786 | Đã mất |
7 | NGÔ YÊN* (THẾ KHANH) CHI VIII | 1789 | Đã mất |
8 | NGÔ ĐỘ (QUÝ NHA) CHI IX | 1795 | Đã mất |
9 | NGÔ KHUÔNG* (DUY BÁT - CHI X) | 1778 | Đã mất |
10 | NGÔ THÌ (DUY TU - CHI XI - VT) | 1782 | Đã mất |
11 | NGÔ DỤC (DUY CUNG - CHI XII - VT) | 1789 | Đã mất |
12 | NGÔ ĐOÀN* (ĐÌNH MAI) CHI Xiii | 1799 | Đã mất |
STT | Họ tên | Ngày Sinh | Trạng thái |
---|---|---|---|
1 | Ngô Chuyên (Phố) | Đã mất | |
2 | Ngô Cảnh | Đã mất | |
3 | Ngô Kỷ | Đã mất |
STT | Họ tên | Ngày Sinh | Trạng thái |
---|---|---|---|
1 | Trần Thị Kiều | Đã mất |
Cụ bà là con gái trưởng cụ Hoàng Giáp khoa Canh Tỵ (1780), họ Trần, húy Bá Lãm người làng Văn Canh, huyện Từ Liêm – Mât ngày 13 tháng 2 Đinh Mão (1867), thọ 86 tuổi.
Đương thời cụ Ngô Thế Mỹ nổi tiếng là người học giỏi. Trong giới Nho giả Bắc Hà, người ta lưu truyền “ Thứ nhất Sáu La, thứ nhì Ba thầy”, Sáu La tức là Ngô Thế Mỹ, Ba thầy tức là Phan huy Chú (con trai thứ ba của Phan Huy Ích).
Năm Gia Long thứ 6 (1807) đỗ sinh Đồ (tú tài) khoa Đinh Mão. Năm Minh Mệnh thứ 2 (Tân Tỵ 1821) làm Hàn Lâm Viện Biên tu. Trước đó, năm Minh Mệnh thứ 1 (Canh Thìn 1820) đã làm Lại Bộ hành tẩu. Cùng năm 1821, lại sung chức Sử Quan biên tu, làm Sơ khảo chấm thi trường Nghệ An, tháng 8 ra Nam Định làm phúc Khảo.
Năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) được triều đình phái ra Quảng Trị bán thóc cho dân lúc ấy đang bị đói kém. Cụ bán thóc cho người có tiền mà không chiếu theo sổ dân đinh. Do đó bị cách chức, phải phát vãng vùng Quảng Trị cùng với danh thần Bùi Phổ làm việc.
Tháng 3 năm Minh Mệnh thứ 5 (Giáp Thân 1824) hết hạn, đến tháng 4 thì được phục chức làm “Ty Vụ Hình bộ thanh lại Ty”. Tháng 7 được thăng bổ Tri huyện Yên Phong (Tòng lục phẩm tước Từ). Tháng 7 năm Minh Mệnh thứ 6 (Ất Dậu 1825) phúc khảo trường thi Nam Định. Tháng 12 năm Minh Mệnh thứ 8 (ĐinhHợi 1827), được thăng bổ Tri phủ Lạng Giang – tòng ngũ phẩm tước Bá. Năm 1830 Canh Dần, Minh Mệnh thứ 11 được gọi về Kinh nhận chức vụ cao hơn, đúng lúc bị ốm, phải xin về quê phục thuốc. Được 4 năm sau thì mất, ngày 14 tháng , năm Minh Mệnh 15 (1834), thọ 53 tuổi.