Lược phả đồ này do ông Trưởng tộc đời thứ 14 là Ngô Kim Thủy cung cấp. Ông cho biết: Theo phả chữ Hán từ đời 1 đến đời 8 mỗi đời chỉ có một người cùng tên vợ người ấy. Ông Ngô Kim Thủy còn cho biết: Trưởng tộc đời thứ 13 là Ngô Kim Lệ (tức bố ông Thủy), trưởng tộc đời thứ 12 là Ngô Kim Khuyến (ông nội ông Thủy); con trưởng ông Thủy là Ngô Kim Tú, đích tôn ông Thủy là Ngô Quang Ảnh.
Khảo cứu: Trong lần tái bản thứ nhất năm 2011 (tr.313-314), vì khi ấy chúng tôi chưa có gia phả họ Ngô Ô Lữ, nên đã viết: “Có thể do cách viết và cách hiểu đoạn phả gồm 8 đời ấy, nên số đời vượt lên như thế chăng? Nếu tính từ đầu thời Cảnh Hưng 1740 cho đến nay mới 360 năm, thì không thể có đến 16 đời được, ít nhất cũng trội lên vài ba đời”. Nhưng nay chúng tôi căn cứ vào gia phả chi tiết của họ Ngô Ô Lữ thì thấy số 16 đời ấy là phù hợp. Bản gia phả họ Ô Lữ được một tập thể các cụ tổ chức biên chép lại bằng song ngữ Hán-Việt vào năm Đinh Sửu thời Tự Đức (1937) cũng đến đời thứ 13.
Vậy phải giải thích thế nào về điều mâu thuẫn trên? Chúng tôi cho rằng các cụ đã nhầm “Cảnh Hưng” với “Quang Hưng”; nếu sửa lại “các cụ chuyển đến nơi này từ thời Quang Hưng nhà Lê” thì hoàn toàn hợp lý, không còn băn khoăn gì nữa. Ngoài ra, ông Ngô Kim Thủy còn cho một bản kê số nhân khẩu từng đời trong họ như dưới đây:
Từ đời 1 đến đời 8: mỗi đời có 01 trai, 0 gái. Đời 9: 01 trai, 0 gái. Đời 10: 02 trai. 02 gái. Đời 11: 07 trai, 4 gái. Đời 12: 14 trai, 13 gái. Đời 13: 31 trai, 30 gái. Đời 14: 57 trai, 51 gái. Đời 15: 48 trai, 62 gái.