Tên húy: | Ngô Rô* |
Giới tính: | Nam |
Tình trạng: | Đã mất |
Tên chữ Hán: | 吳魯 |
Chức vụ phẩm hàm: | Đại toát thái lão |
Ngày giờ mất: | 1336 |
Mộ táng tại: | Đồng Phang |
Bố: | Ngô Ma Lư* |
Mẹ: | Nguyễn Thị Đào |
STT | Họ tên | Ngày Sinh | Trạng thái |
---|---|---|---|
1 | Ngô Tây* | 1306 | Đã mất |
STT | Họ tên | Ngày Sinh | Trạng thái |
---|---|---|---|
1 | Đinh Thị Quỳnh Khôi | Đã mất |
Ngô Rô là con Ngô Ma Lư không rõ năm sinh, mất ngày 28 tháng 3 năm Bính Tý (1336), mộ táng tại thôn Thung Thượng xã Đồng Phang, tục gọi là xứ Bờ Đó (hay Lỗ Đó, Nỏ Đó). Vợ là Đinh Thị Quỳnh Khôi, người thôn Thần Khê xã Đô Kỳ, mất ngày 10 tháng 3. Mộ táng tại thôn Thung Thương xã Đồng Phang, phía Đông chùa Thiên Phúc, tục gọi là xứ Xó Chùa. Tương truyền cả hai ông bà đều được “thiên táng”.
Các phả cũ đều lấy Ngô Rô làm đời thứ nhất của hệ phả Đồng Phang.
Theo phả do Hán Quốc công Ngô Lan viết, thì Ngô Xương Sắc sinh Ngô Tử Án, đến Ngô Tử Uy, Ngô Tử Vĩnh không làm chức việc gì nữa. Đến cuối triều Lý, trải ba đời đến Ngô Đấu Lăng, cảnh nhà túng bấn, chuyển cả về Đồng Phang (nay là xã Định Hòa huyện Yên Đinh, Thanh Hóa) ngày càng cùng quẫn.
Từ Ngô Hữu Liêu, Ngô Ma Lư, Ngô Rô, Ngô Tây đều là truy phong “quan hàm” sau khi Ngô Kinh, Ngô Từ lập công lớn đánh quân Minh, được phong là Khai quốc công thần. Hương quan là quan ở làng, có chức quan để được trọng nể (Theo quan chức chế)
Theo phả Bách Tính và Phan Hữu Lập, thì bà vợ Ngô Rô là Trần Thị Hưu (Thể), người xã Kim Bàn huyện Vĩnh Lộc. Nay chúng tôi theo Bia Sơn Lăng ở mộ bà Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao mà sửa lại. Văn bia do Nguyễn Bảo, Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1472), hữu thị lang bộ Lễ và Nguyễn Xung Xác, Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1469), tham chưởng Hàn lâm viện sự biên soạn năm Mậu Ngọ, niên hiệu Cảnh Thống năm đầu (1498).