Tên húy: | Ngô Xương Tỷ (Ngô Chân Lưu)* |
Giới tính: | Nam |
Tình trạng: | Đã mất |
Tên tự: | Ngô Chân Lưu |
Tên chữ Hán: | 吳昌屣 |
Chức vụ phẩm hàm: | Khuông Việt Đại sư |
Ngày giờ sinh: | 933 |
Ngày giờ mất: | 1011 |
Hưởng thọ: | 78 |
Bố: | NGÔ XƯƠNG NGẬP* |
Mẹ: | Phạm Thị Uy Duyên |
STT | Họ tên | Ngày Sinh | Trạng thái |
---|---|---|---|
1 | Ngô Xương Xí* | Đã mất |
Ngô Xương Tỷ (Ngô Chân Lưu 933 - 1011)
Con trưởng Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, sinh tại châu Ái, lớn lên ở làng Cát Lợi quận Thường Lạc.
Theo sử sách ghi chép thì Ngô Xương Tỷ từ nhỏ đã có tướng mạo khôi ngô, tính tình phóng khoáng. Từ nhỏ, ông đã theo học Nho tới khi lớn lên mới quy y cửa Phật. Lúc bấy giờ Xương Tỷ đã có tên là Ngô Chân Lưu cùng người bạn học là Trụ Trì tới chùa Khai Quốc, nay là chùa Trấn Quốc để xin học với thiền sư Vân Phong và thọ giới Cụ túc tại đây. (Thọ giới Cụ túc, tức nhận lấy đầy đủ những kỷ luật chi phối đời sống cá nhân và đời sống tập thể của tổ chức Phật giáo).
Bắt đầu từ đây, Ngô Chân Lưu đọc khắp các sách Phật, tìm hiểu yếu chỉ của Thiền Tông. Sau khi theo học thiền sư Vân Phong một thời gian, Ngô Chân Lưu bắt đầu du ngoạn các nơi, tham vấn Thiền học. Chuyện kể rằng, một lần, Ngô Chân Lưu đi chơi núi Vệ Linh, ở quận Bình Lỗ, nay thuộc xã Phù Linh huyện Sóc Sơn, thấy phong cảnh nơi đây thanh bình, tĩnh lặng thích hợp cho việc tu hành nên nảy ra ý định lập am để ở.
Ngay đêm hôm đó, Ngô Chân Lưu nằm mộng thấy một vị thần, mình mặc áo giáp vàng, tay trái cầm thương vàng, tay phải đỡ bảo tháp, hơn mười người theo hầu, tướng mạo rất dễ sợ, bước đến gần nói rằng: “Ta là Tỳ Sa Môn thiên vương, những người theo ta là dạ xoa. Thiên đế có chỉ lệnh sai ta đến nước này để giữ gìn biên giới, khiến cho Phật pháp thịnh hành. Ta có duyên với ngươi, nên đến đây báo cho ngươi biết”. Ngô Chân Lưu giật mình tỉnh dậy, nghe trong núi có tiếng huyên náo lòng rất lấy làm lạ. Sáng hôm sau, Ngô Chân Lưu vào núi, thấy một cây to, cao khoảng mười trượng, cành lá sum suê, bên trên lại có mây xanh bao phủ trong lòng mừng thầm mới sai thợ đến chặt, đem về, khắc tượng như đã thấy trong mộng rồi lập am để thờ.
Tới năm 40 tuổi, danh tiếng của thiền sư Ngô Chân Lưu đã vang tới tận triều đình. Năm 969, vua Đinh Tiên Hoàng đã mời Thiền sư tới gặp. Sau cuộc trò chuyện tâm đầu ý hợp, Đinh Tiên Hoàng đã quyết định phong cho thiền sư Ngô Chân Lưu chức Tăng thống. Ngô Chân Lưu trở thành vị thiền sư đầu tiên giữ chức Tăng thống trong lịch sử Việt Nam - một chức vị đứng đầu và quản lý tăng nhân trong cả nước. Hai năm sau đó, năm Thái Bình thứ 2 tức năm 971, Đinh Tiên Hoàng phong cho thiền sư Ngô Chân Lưu pháp hiệu là Khuông Việt thiền sư với ý nghĩa là người tu sửa, chấn hưng Phật giáo nước Việt. Cái tên Khuông Việt của thiền sư Ngô Chân Lưu cũng bắt nguồn từ thời điểm đó.
Năm 980, trước nguy cơ xâm lược của nhà Tống, thái hậu Dương Vân Nga cùng các đại thần đã tôn Lê Hoàn lên ngôi vua để lãnh đạo công cuộc chống lại cuộc xâm lược của quân Tống. Dưới thời trị vì của Lê Hoàn, thiền sư Khuông Việt tiếp tục được trọng dụng trong vài trò của một Tăng thống. Và đây là khoảng thời gian diễn ra câu chuyện ngoại giao nổi tiếng của thiền sư Khuông Việt và Pháp Thuận.Năm 987, người đứng đầu phái bộ của nhà Tống là Lý Giác tới Việt Nam. Lê Hoàn đã nhờ Pháp Thuận và Khuông Việt cùng đứng ra đón tiếp. Pháp Thuận đã đón Lý Giác từ chùa Sông Sách, nay thuộc tỉnh Hải Dương, để đưa về kinh ấp Hoa Lư. Đến Hoa Lư, Khuông Việt đã đứng ra tiếp. Trước khi Lý Giác ra về, Khuông Việt đã viết bài từ “Vương Lang Quy” nổi tiếng cho tới tận ngày nay. Đây là một loại từ khúc lưu hành khá phổ biến thời bấy giờ, có thể dùng như lời của một bản nhạc để hát với việc sử dụng các nhạc khí để tấu kèm theo. Khúc từ này vốn có tên là “Ngọc Lang Quy”, mà truyền bản nhà Nguyễn viết thành “Vương Lang Quy”. Đây có thể nói là lần đầu tiên văn chương nghệ thuật đã công khai đưa vào phục vụ sự nghiệp chính trị ngoại giao.
Về cuối triều Tiền Lê, Ngô Chân Lưu già yếu xin từ quan về núi Du Hý, lập chùa trụ trì, người học tìm tới rất đông. Ngày 15 tháng 2 năm Thuận Thiên thứ 2 (1011) tức ngày 22/3/1011 dương lịch, ông viên tịch, thọ 78 tuổi. Khi sắp cáo tịch, Thiền sư Ngô Chân Lưu – Khuông Việt quốc sư có dạy sư Đa Bảo kệ rằng: "Trong cây vốn có lửa, Có lửa, lửa mới bừng, Nếu bảo cây không lửa, Cọ xát do đâu bùng?”.