Ngô Tộc

https://ngotoc.vn


Tìm sự kiện và nhân vật họ Ngô trong Đại Nam thực lục (Kỳ 8)

ngotoc.vn xin giới thiệu tiếp Kỳ 8 bài Tìm sự kiện và nhân vật họ Ngô trong Đại Nam thực lục, phần biên chép về triều Tự Đức


 
l
ĐỆ TỨ KỶ
THỰC LỤC VỀ DỰC TÔNG ANH HOÀNG ĐẾ
(TỰ ĐỨC)
Quyển 1

Húy Hồng Nhậm

Quyển 2

Mậu Thân 1848, Tự Đức năm thứ 1. Từ Tháng 1. Tổng đốc Định-Biên Ngô Văn Giai cùng Án sát sứ Nguyễn Ba hặc lẫn nhau, đều bị cách chức. Ngô Văn Địch Hộ bộ hữu thị lang thăng thự Tuần phủ Biên Hòa. Ngô Kim Lân Thự tuần phủ Ninh Bình triệu về Kinh để chuẩn bị lễ tang vua Thiệu Trị. Lê Luận, cháu Lê Chất Nguyễn Văn Toại (cháu Nguyễn Văn Thành) Lê Văn Diễn (cháu Lê Văn Duyệt) được chờ bổ dụng (tr.88). Chuẩn tấu để Ngô Kim Lân được lưu ở tỉnh. Thi Điện cho 8 người đỗ Tiến sỹ và 14 người Phó bảng. Cấm đạo Gia Tô.

Quyển 3

Mậu Thân 1848, Tự Đức năm thứ 1. Từ Tháng 7. Mở Ân khoa thi hương 3 trường Nam Định, Hà Nội, Thanh Hóa. Đã in xong quyển Thế tổ Cao hoàng đế thực lục Chính biên (tr.109). Ngô Kim Lân, Thự tuần phủ Ninh Bình được triệu về Kinh để dự lễ tang vua Thiệu Trị.

Quyển  4
Kỷ Dậu 1849, Tự Đức năm thứ 2. Từ Tháng 1. Sứ bộ sang nhà Thanh dâng đồ cống hàng năm. (tr.119). Sai hiệp quản vệ Võng Thành Ngô Văn Quần đem 300 quân đi bắt hổ. Tháng 4 nhuận thi Điện lấy đỗ Hoàng giáp 2 người; Tiến sỹ 12 người (có Ngô Tòng Nho); Phó bảng 12 người (có Ngô Quang Diệu). Khoan miễn tội trước cho Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt và Lê Chất (tr.139). Tú tài ấm sinh xuất thân Ngô Bá Hy được vua khen là người có hạnh kiểm, cần được bổ dụng, đình thần có ý kiến khác nhau, vua khiển trách. Tấn phong Trạng nguyên nhà Lê Vũ Duệ làm Đoan chính Trung đẳng thần.


Quyển  5

Canh Tuất 1850, Tự Đức năm thứ 3. Từ Tháng 1. Dân cả nước bị chết dịch cộng 589.460 người (tr.155). Ngô Bá Hi, án sát Quảng Nam cùng đồng liêu không cho thuyền buôn nước Ba-Ly-Căn ở Tây Dương vào giao thương, triều đình cũng không cho chỉ cho chúng chơi núi Ngũ Hành rồi về. Hoàng Quý phi trở lên đã có thứ bậc rõ ràng rồi, nay quy đinh từ phi tần trở xuống:
Bậc thứ nhất: Thuận phi,Thiện phi, Nhã phi
Bậc thứ hai: Cung phi,  Cần phi,  Chiêu phi
Bậc thứ ba: Khiêm tần, Thận tần, Nhân tần, Thái tần
Bậc thứ 4: Khoan tần, Giai tần, Tuệ tần, Giản tần
Bậc thứ 5: Tinh tần, Cần tần, Tín tần, Uyển tần
Bậc thứ 6: Tiệp dư
Bậc thứ 7: Quý nhân
Bậc thứ 8: Mỹ nhân
Bậc thứ 9: Tài nhân
Ra lệnh cho Kinh diên giảng quan cử người học nhiều, tài giỏi, văn chương cao nhã, giỏi làm thơ, Ngô Thế Vinh (đỗ đồng tiến sĩ xuất thân, nguyên lang trung bộ Lễ bị cách) được đề cử.

Quyển 6

Tân Hợi 1851, Tự Đức năm thứ 4. Từ Tháng 1. Thi Điện, lấy 1 Bảng nhãn, 1 Thám hoa, 1 Hoàng giáp, 7 Tiến sỹ, 10 Phó bảng. Ngày Tân Mùi, thi lại các người Chế khoa lấy đỗ ở điện Cần Chánh.

Quyển 7

Tân Hợi 1851, Tự Đức năm thứ 4. Từ Tháng 7. Trương Đăng Quế, Cần chính điện đại học sĩ lĩnh Binh bộ Tuy Thịnh Quận công dâng sớ xin về trí sĩ, vua không cho. Dời huyện lỵ Hải Lăng đến Diên Sanh. Tổng đốc An Hà là Cao Hữu Bằng tâu việc Quốc vương Cao Miên khiếu nại việc ta thu thuế xứ Kha Bát nước họ. Nhưng điều đó là không đúng, mới sai Ngô Thế Chu đưa thư sang nói lại cho rõ. Khởi phục cho Cấm binh Chánh đội trưởng Ngô Văn Nhai để cai quản tù nhân được đưa đến Hà Ninh theo đề xuất của Kinh lược lãnh tổng đốc Hà Ninh là Nguyễn Đăng Giai.

Quyển  8

Nhâm Tý 1852, Tự Đức năm thứ 5. Phong hoàng thân, hoàng đệ 13 người làm Quận công. Thuộc biền của Tuần phủ Biên Hòa Ngô Văn Địch để có kẻ dung túng buôn thuốc phiện lậu, Địch bị phạt bỗng. Nước Thủy Xá, Hỏa Xá sai sứ thần đến cống. Tuần phủ Biên Hòa Ngô Văn Địch bị giáng chức, lấy Nguyễn Cửu Trường thay. Sai Bố chính Nam Định Ngô Bỉnh Đức cùng Ngụy Khắc Tuần đến Hải Dương tra xét lại việc án Nguyễn Hữu Bình, Bố chính tỉnh ấy trước. Ngô Điền, Tri phủ Nam Sách cũng tham dự xem xét vụ này. Vỡ đê 3 tỉnh: Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên. Ngô Bỉnh Đức, bố chính sứ Nam Định đến Hải Dương tra xét lại vụ án Nguyễn Hữu Bình là bố chính sứ tỉnh ấy trước đây phạm tội trượng và đồ, nay không thay đổi. Ngô Điền, tri phủ Nam Sách dàn xếp vụ dân kiện tụng, không có lỗi nặng nên không bị phạt.

Quyển 9

Quý Sửu 1853, Tự Đức năm thứ 6. Bố chính Nam Đinh Ngô Bỉnh Đức và 2 người khác được khen thanh liêm, cần mẫn, trị dân không nhiễu sự, 3 người đều được thưởng mỗi người một tấm khánh bằng vàng tía hạng lớn có 4 chữ “Liêm, Bình, Cần, Cán”

Quyển 10

Giáp Dần 1854, Tự Đức năm thứ 7. Từ Tháng 1. Chuyển đê công ở hai thôn Phạm Nỗ, Xuân Du (h. Diên Hà) và ở xã Tam Trang, tổng Thượng Hộ (h. Hưng Hà) thành đê tư, do dân tự lo giữ.

Quyển 11

Giáp Dần 1854, Tự Đức năm thứ 7. Tháng 7. Cao Bá Quát mưu phản nghịch (tr.336). Bọn chúng đốt phủ lỵ Ứng Hòa và huyện lỵ Thanh Oai. Án sát Nguyễn Văn Vỹ và Phó lãnh binh Ngô Nghê phá được lũ giặc Đồng Dương, bắt được thủ lĩnh của chúng. Phủ thành Nam Sách bị tấn công, Bố Chính Lê Bá Đĩnh, Phó lãnh binh Ngô Khánh đem quân và voi đến vây bắt.

Quyển 12

Giáp Dần 1854, Tự Đức năm thứ 7. Từ Tháng 8. Bố chính Nam Định Ngô Bỉnh Đức thăng thự Tả tham tri bộ Hộ. Vua sai Ngô Bỉnh Đức tạm kiêm quản viện Đô sát. Ngô Bỉnh Đức cùng 3 người khác được thưởng gia 1 cấp. Cả Bố chính Hải Dương Lê Bá Đĩnh và Phó lãnh binh Ngô Khánh bị giải chức, đợi xét về vụ phủ Nam Sách thất thủ. (tr.375).

Quyển 13

Ất Mão 1855, Tự Đức năm thứ 8. Tháng 7. Cho giết chết Lê Duy Cự và Cao Bá Quát (tr.404). Phó lãnh binh Hà Nội Ngô Nghê bị tội mãng trượng và đồ. Ngô Đàm Viên huyện Thanh Quan bị Hộ đốc Định-Yên Nguyễn Đình Tân hặc làm việc không hết lòng, xin phái người khác đến thay.

Quyển 14

Bính Thìn 1856, Tự Đức năm thứ 9. Từ Tháng 1. Ra ơn cho Ngô Tòng Chung hàm Chánh cửu phẩm bách hộ để coi giữ thờ cúng Ngô Tòng Chu. Lại vời Ngô Thế Vinh nhưng lấy cớ mẹ già xin từ. Cho đi trạm về Kinh đợi xét, rồi chuẩn cho khai phục nguyên tịch là Tiến sỹ và cho 30 lạng bạc, cho về (tr.443). Ngày 1 tháng 5 thi phúc thí, Ngô Văn Độ đỗ Tiến sỹ (có Đặng Xuân Bảng và 3 người nữa). Đình thần làm tập tâu đem những người được thờ vào đền Trung Nghĩa có: Vệ úy Tượng quân tặng Chưởng cơ Ngô Văn Thành, thự Phó Vệ úy Thần cơ tặng Vệ úy Ngô Doãn Phú (tr.444), Cai đội Ngô Văn Xuân (tr.447), cai đội Ngô Thiên Tường (tr.449). Chánh đội trưởng Ngô Văn Huân, Chánh đội trưởng Ngô Văn Chiêm (tr.450). Vua y cho.

Quyển 15

Bính Thìn 1856, Tự Đức năm thứ 9. Từ Tháng 7. Án sát Khánh Hòa Ngô Khắc Kiệm tội bao che đồng liểu phạm tội bị xử tội đồ 4 năm.

Quyển 16

Đinh Tỵ 1857, Tự Đức năm thứ 10. Từ Tháng 1.  Sĩ nhân ở Nghệ An nộp cho nhà nước các sách: Dã sử, Lê Triều ký sự, Sử tạp ký, Ngũ man phong thổ ký, Cố Lê ký. Sử cục loại biên. Hậu Lê ký. Lê triều dã sử.

Quyển 17

Đinh Tỵ 1857, Tự Đức năm thứ 10. Từ Tháng 7. Hoãn việc lính Bắc Kỳ về Kinh diễn tập.

Quyển 18

Mậu Ngọ 1858, Tự Đức năm thứ 11. Tháng 1. Chuần cho bài vị những bề tôi cũ được bày thờ ở đền Hiền Lương 39 người.

Quyển 19

Mậu Ngọ 1858, Tự Đức năm thứ 11. Từ Tháng 7. Nêu thưởng 18 người tiết phụ tỉnh Bắc Ninh có Ngô Thị Tám. Quân của Tây Dương vào xã Mỹ Thị, phá đồn thổ Sơn. Tổng thống Lê Đình Lý đánh nhau với chúng 1 trận to ở xã Cẩm Lệ bị đạn lạc trúng phải, biền binh sợ chạy tán loạn (tr.575). Dân tỉnh Hà Tiên có Ngô Văn Lộc, bị người Xiêm bắt đi buộc theo đạo Gia Tô, nay bỏ đạo trốn về nước.

Quyển 20

Kỷ Mùi 1859, Tự Đức năm thứ 12. Tháng 1. Thuyền của Tây dương 14 chiếc đỗ ở Tử Đữ (Khánh Hòa). Vua cho lấy 500 lính từ Gia Định ra, quân Tây dương rút đi, quân ta lại về Gia Định. Quân của Tây dương đến các đồn Phú Thọ, các đạo binh đóng ở ngoài sợ hãi tan vỡ. Bắt giết con Bá Đạt là Bá Nhạ, con Bá Quát là Phùng... (tr.613) [bạn tôi, anh Lưu Mai Cơ cho biết chính anh là hậu duệ của Cao Bá Quát, tổ tiên anh chạy trốn vào Quảng Ngãi]  

Quyển 21

Kỷ Mùi 1859, Tự Đức năm thứ 12. Tháng 1. Thuyền của Tây Hà Nội thờ những người tòng vong theo Lê Chiêu Thống tất cả 23 người (tr.627). Lập bia liệt nữ Phan Thị Thuấn, là vợ lẽ Ngô Cảnh Hoàn (tr.628)

Quyển 22

Canh Thân 1860, Tự Đức năm thứ 13. Từ Tháng 1. Thống soái của Tây Dương là Va Du đưa hòa ước 11 khoản đến quân thứ Gia Định. 300 quân do Phạm Văn Nghị mộ đến quân thứ Quảng Nam để đánh giặc, nay không đánh, cho về thưởng cho ngân tiền để khuyến khích. Đê sông Thiên Đức (Đuống) vỡ.

Quyển 23

Canh Thân 1860, Tự Đức năm thứ 13. Từ Tháng 7. Các đại thần hội bàn xem xử trí với Tây dương ra sao nên đánh, hòa, giữ thế nào. Các đại thần đều nói đánh và giữ (tr.667).

Quyển 24

Tân Dậu 1861, Tự Đức năm thứ 14. Từ Tháng 1. Tây dương mang ước 10.000 quân với sung ống đánh Đại đồn (Gia Định), đánh nhau 2 ngày, biền binh tan vỡ. Nguyễn Duy, Tôn Thất Trĩ chết, Nguyễn Tri Phương bị thương (tr.705). 1.500 biền binh Thanh, Nghệ đến Kinh thao diễn.

Quyển 25

Tân Dậu 1861, Tự Đức năm thứ 14. Từ Tháng 7. Sai bộ Lễ hội đồng cùng phủ Thừa Thiên chọn 3 nơi để lập đền thờ những lệt sĩ trận vong từ năm Tự Đức 1 đến nay (1 đàn cho liệt sĩ trận vong ở quân thứ Quảng Nam; 1 đàn ở quân thứ Gia Định, 1 đàn với các nơi khác (tr.729).

Quyển 26

Nhâm Tuất 1862, Tự Đức năm thứ 15. Từ Tháng 1. Sai Ngô Văn Độ, Thị giảng viện Tập hiền về quê nhà Sơn Tây mộ lính. Đem đất 3 tỉnh Gia Định, Định Tường, Biên Hòa nhường cho Tây Dương (tr.770). Tháng 5  thi Đình, cho 2 người đỗ Hoàng giáp, 4 người đỗ Tiến sỹ, 5 người đỗ Phó bảng. Phủ Vĩnh Tường, Quốc Oai nối nhau thất thủ, nhưng sau đánh lấy lại được, Cai tổng Ngô Viết Trào được thưởng một đồng tiền Song long bằng vàng hạng nhỏ.

Quyển 27

Nhâm Tuất 1862, Tự Đức năm thứ 15. Từ Tháng 7. Bọn thổ phỉ ở Vĩnh Định, Kiên Giang nhân bọn Tây dương bắn vào đồn bảo, bèn tràn đến cướp phá Ba Xuyên, bọn Đề đốc Ngô Đĩnh đánh tan chúng (tr.784). Đạo quân đường thủy của Hải Dương tiến quân lấy lại phủ Ninh Giang, Đề đốc Ngô Nghê có công.

Quyển 28

Quý Hợi 1863, Tự Đức năm thứ 16. Tháng 1. Chuẩn cho sứ thần 2 nước Phú Lang Sa và Y Pha Nho làm lễ triều yết (tr.805). Khen thưởng người tiết phụ có Ngô Thị Mai (Bình Định). Tàu nước Phú Lang Sa vào cửa biển Bình Thuận đo lường độ nông sâu. Thuyền giặc ở Cát Bà vào cướp vùng sông Kiến Thụy. Đốc binh là bọn Ngô Nghê đến 2 xã Hoàng Kênh, Kiến Phúc  đánh phá tan bọn giặc. Cho Đề đốc An Giang Ngô Đĩnh lĩnh Tuần phủ Hà Tiên

Quyển 29

Giáp Tý 1864, Tự Đức năm thứ 17. Tháng 3. Các tỉnh Bắc Ninh, Nam Định, Hà Nội, Ninh Bình, Sơn Tây, Hưng Yên, Hưng Hóa, Quảng Bình bị đói. Sai lấy thóc kho ra cho vay (tr.842). Trước đây tỉnh thành Gia Định không giữ được, các đại viên ở tỉnh và quân thứ đã bị xử lý, những người chưa có công trạng thì xử trảm giam hậu gồm 36 viên, nay cách chức sai phái để lấy công chuộc tội. Trong 36 vị có Đốc chiến Ngô Đức Y; những người có công trạng thì phạt 100 trượng cách chức lưu dụng gồm 24 người có Đốc chiến Ngô Văn Mạo (tr.856).

Quyển 30

Giáp Tý 1864, Tự Đức năm thứ 17. Từ Tháng 7. Chuẩn cho thự Thị lang bộ Lại Trần Hoán được thực thụ Thị lang lĩnh Tuần phủ Hà Tiên, thay cho Ngô Đĩnh bị ốm. Truy tặng và cấp tuất cho biền binh chết trận ở quân thứ Hải Dương. Thưởng cho các viên biền ở quân thứ Hải Yên có Bá hộ lĩnh Cai tổng Ngô Danh Diêu. Năm trước toàn hạt Ninh Bình, duy có phủ Nho Quan bị thất thủ nhưng sau thu phục lại được ngay, nay xét thường có Nhiếp biện huyện Gia Viễn Ngô Toại. Trị tội những người phản đối hòa ước có Suất đội Ngô Thịnh.

Quyển 31

Ất Sửu 1865, Tự Đức năm thứ 18. Từ Tháng 1. Chủ súy nước Phú Lang Sa là Gia-lăng-đi-e, phái người là Sơ-ba-lê đi tàu chạy máy bằng hơi nước đến đồn cửa biển Thuận An đưa thư xin vào chầu và tâu bày việc hòa ước (tr.897). Thi Đình cho 3 người đỗ chính bảng (Nhị giáp Trần Hy Tăng 3 kỳ thi hương, hội, đình đều đỗ đầu; tam giáp 2 người) và 13 phó bảng (tr.915).

Quyển 32

Ất Sửu 1865, Tự Đức năm thứ 18. Từ Tháng 5. Tấn phong em vua là Hồng Cai làm Kiến Quốc công.

Quyển 33

Ất Sửu 1865, Tự Đức năm thứ 18. Từ Tháng 9. Mới mở khoa nhã sĩ, cho 5 người đỗ thứ bậc khác nhau. Sau vua duyệt cho 3 người đố Tiến sỹ có Ngô Đức Bình. Chủy súy người Pháp ở Gia Định là Đơ-dờ về Tây Gia-lăng-di-e sang thay.

Quyển 34

Bính Dần 1866, Tự Đức năm thứ 19. Từ Tháng 1. Bọn giặc ở Hải Dương và Quảng Yên đã dẹp xong, đình thần xin vào làm lễ triều mừng (tr.980). Chủ súy nước Pháp phái thuyền đến cửa biển Thuận An, đưa thư xin cho cai quản 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, vua sai Phan Huy Vịnh, Phạm Phú Thứ đến  thương lượng giữ hòa ước cũ. Giám mục Ngô Gia Hậu ở Quảng Bình (tr.989). Ngô Côn tức Ngô Hòa Khanh (quân Cờ Đen) đến cửa quan đầu hàng, xin nộp lạị tỉnh thành (tr.990). Chủ súy Pháp mở trường đấu xảo, đưa thư yêu cầu dân ta đến xem hội.

Quyển 35

Bính Dần 1866, Tự Đức năm thứ 19. Từ tháng 7. Sai Giám mục nước Phú Lang Sa [Ngô Gia Hậu] cùng Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Điều sang nước Tây thuê thợ và mua máy móc (tr.1012). Hơn 300 giặc Man đánh úp 2 đồn Hà Dương và An Biên (Tuyên Quang), bị quân sở tại đánh tan.

Quyển 36

Đinh Mão 1867, Tự Đức năm thứ 20. Từ tháng 1. Tri phủ Phú Bình (Thái Nguyên) là Ngô Huy Chác dụ được bọn giặc trốn ra đầu thú, được thưởng. Người Pháp bức lấy 3 tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.

Quyển 37

Đinh Mão 1867, Tự Đức năm thứ 20. Từ tháng 7. Nêu thưởng tiết phụ các hạt có Ngô Thị Lễ (Sơn Tây).

Quyển 38

Mậu Thìn 1868, Tự Đức năm thứ 21. Từ tháng 1. Án sát Cao Bằng Lê Ngô Cát bị cách chức (tr.1098). Đầu mục giặc là Ngô Côn chia hơn 2.000 quân đi cướp bóc tỉnh Lạng Sơn, rồi tiến vây đồn Lạc Dương. Chuẩn cho Lê Văn Thành được phục chức Vọng Các đại thần, Chưởng trung quân Bình Tây Đại tướng quân; Lê Văn Duyệt truy phục chức Vọng Các đại thần, Chưởng tả quân Bình Tây Đại tướng quân. Lại cho truy phục Đặng Trần Thường làm Tham tri bộ Lại; Lê Văn Quân là Bình Tây Đô đốc; Chưởng quân. Lê Chất là Tả đồn đô thống chế (tr.1104). Kỳ phúc thí, cho Vũ Như  (Hoàng giáp) 3 người là Tiến sỹ và 12 Phó bảng. Bố chính Cao Bằng Nguyễn Văn Vĩ trước bị gặc bắt, đến nay từ đồn Tú Sơn trở về. Vua sai Lê Ngô Cát điều tra sự thể thế nào. Thi phúc hạch ban võ, lấy đỗ Tiến sỹ 5 người, Phó bảng 20 người. 

Quyển 39

Mậu Thìn 1868, Tự Đức năm thứ 21. Từ tháng 7. Ngô Côn xin ra thú, vua sai phải xem xét kỹ rồi báo về triều. Ngô Côn lại tràn đến quấy nhiễu Thái Nguyên. Mở Ân khoa thi hương ở 6 trường: Thừa Thiên, Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Nội, Nam Định, Bình Định, nhưng do chấm không chuẩn bị đánh trượt cả, các viên giám khảo đều giáng 1 cấp.

Quyển 40

Kỷ Tỵ 1869, Tự Đức năm thứ 22. Từ tháng 1. Kỳ phúc thí Ân khoa: Nguyễn Quang Bích, Hoàng giáp; 4 Đồng Tiến sỹ và 4 Phó bảng (tr.1185). Nêu thưởng tiết phụ các hạt có Ngô Thị Nhượng ở Thanh Hóa. Cho Án sát Hải Dương Tôn Thất Thuyết sung chức Tán tương quân thứ Thái Nguyên.

Quyển 41

Kỷ Tỵ 1869, Tự Đức năm thứ 22. Từ tháng 7. Mở Ân khoa phúc thí võ lấy 3 người đỗ Tiến sỹ và 22 Phó Bảng (tr.1194). Đầu mục giặc Ngô Côn vây tỉnh Bắc Ninh. Ông Ích Khiêm được tin báo từ huyện Kim Anh, đang đêm đem quân và voi tiến đường đánh giúp. Trong thành cùng bắn ra, Ngô Côn bị trúng đạn chết (tr.1196).

Quyển 42

Canh Ngọ 1870, Tự Đức năm thứ 23. Từ tháng 1. Co No nước Pháp sang thay Ô Khỉ làm tướng ở Gia Định, đệ thư đến nói quốc chủ nước ấy ủy cho toàn quyền cùng với quan Thương bạc nước ta bàn định điều ước mới. (tr.1216).

Quyển 43

Canh Ngọ 1870, Tự Đức năm thứ 23. Từ tháng 7. Nêu thưởng tiết phụ ở các hạt có Ngô Thị Biều (Hải Dương).

Quyển 44

Tân Mùi 1871, Tự Đức năm thứ 24. Từ tháng 1. Kỳ phúc thí lấy Nguyễn Khuyến và 2 người nữa đỗ Tiến sỹ, cùng 5 người Phó bảng.
Các tỉnh Hà Nội, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Yên, Nam Định vỡ đê.

Quyển 45

Tân Mùi 1871, Tự Đức năm thứ 24. Từ tháng 7. Chuẩn cho bán ruộng công bỏ hoang làm ruộng tư để giúp vào việc quân phí.

Quyển 46

Nhâm Thân 1872, Tự Đức năm thứ 25. Từ tháng 1. Hoãn việc duyệt sổ đinh tuyển lính ở các tỉnh: Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương. Tướng nước Pháp ở Gia Định là Du-bi-lê về Tây, quyền tướng là Đa-bờ-ra đến thay. Đồn Đông Lý tỉnh Tuyên Quang bị giặc chiếm mất. Quyền Hiệp quản Ngô Văn Vãng đánh giặc Việt Yên (Bắc Ninh) có công.

Quyển 47

Nhâm Thân 1872, Tự Đức năm thứ 25. Từ tháng 7. Bọn giặc Man lẻn xuống 2 đồn ở Quảng Ngãi. Lãnh binh Ngô Đắc Quang (trước tên Đắc Hộ) không ngăn chặn được bị giáng 4 cấp.

Quyển 48

Quý Dậu 1873, Tự Đức năm thứ 26. Từ tháng 1. 6 tên giặc ở đất Thanh trốn sang đồn Bắc Cung (Cao Bằng), bọn đầu mục Mán ở Suất Tỉnh bắt được đem giết. Sai sứ sang nước Thanh dâng cống hàng năm. Giặc Hoàng Anh quấy nhiễu ở Trấn Hà (Hưng Hóa). Quan quân thứ là Hoàng Tá Viêm, Tôn Thất Thuyết phái Lãnh binh Ngô Tất Ninh hợp với đoàn quân của Lưu Vĩnh Phúc tiến đánh, thắng được, được thưởng quân công

Quyển 49

Quý Dậu 1873, Tự Đức năm thứ 26. Từ tháng 7. Tỉnh Hưng Yên bị lụt, đê 5 huyện vỡ (Đông An, Kim Động, Phù Cừ, Ân Thi, Tiên Lữ). Quan quân đóng ở Hương Canh đánh giết An Nghiệp ở ngoài La Thành; An Nghiệp [Francis Garnier] là quan ba, một tên quan 2, một tên quan 1 cùng 2 tên không có lon (tr.1422).
                       (Hết tập bảy)

Quyển 50

Giáp Tuất 1874, Tự Đức năm thứ 27. Từ tháng 1. Giặc nước Thanh kéo hơn 1.000 người sang quấy nhiễu miền thượng du Thanh Hóa, h. Trình Cố không giữ được. Chuẩn cho Chưởng vệ ở quân thứ Tĩnh Nam tỉnh Quảng Ngãi là Ngô Đắc Quang đổi làm Chưởng dinh Vũ lâm Tả dực. Vua Sai Ngô Đắc Quang cùng Đinh Văn Khoa sung làm Khâm phái đem 500 linh Kinh đến Hà Tĩnh để trấn áp bọn giặc. Chuần cho Doanh điền Phó sứ là Đỗ Phát  vẫn ở quê cũ cùng với Phạm Văn Nghị dạy dân khai khẩn làm ruộng. Đỗ Phát bị ốm, gặp giặc đã ủy cho con rể là Ngô Phú [Lý] Diên [con TS Ngô Thế Vinh] đánh giặc thay [ở thành Nam Định].

Quyển 51

Giáp Tuất 1874, Tự Đức năm thứ 27. Từ tháng 5. Hoàng Tá Viêm đánh lấy lại được thành phủ Đoan Hùng. Tướng nước Pháp Kha răng sai Tham biện Sô-ma-rô mang thư cùng với Phó sứ Nguyễn Tăng Doãn đến đòi trong thương ước phải nói thêm việc mở phủ buôn bán và đặt lãnh sự ở Hà Nội. Vua y cho (tr.51). Điều ước thông thương gồm 29 điều đã làm xong (tr.54). Tướng giặc Đặng Như Mai chiếm giữ phủ Quỳ Châu, quyền Lãnh binh Ngô Đạt đem quân đánh lại, Như Mai bị bắt chém đầu, Ngô Đạt được thưởng 3 thứ. Bắc Kỳ bị bão lụt chết nhiều người.

Quyển 52

Giáp Tuất 1874, Tự Đức năm thứ 27. Từ tháng 9. Sứ bộ sang nước Thanh Phan Sĩ Thục trở về, bị nghẽn đường ở Bắc Ninh, nên phải ở lại tình thành Lạng Sơn, làm sớ tâu lên. Bọn giặc cướp trường giao dịch ở đạo Phú Yên, quan đạo ấy Lê Văn Phổ, Ngô Đức Bình vì phòng giữ sơ suất đều bị giáng 1 cấp. Thống đốc Hoàng Tá Viêm tâu xin điều quân 4 đạo trong đó có đạo của Lưu Vĩnh Phúc đến Tuyên Quang đánh bọn giặc Hoàng Anh (tr.77). Trương Định khi trước Pháp chiếm các tỉnh Nam Kỳ, Định mộ quân chống đánh bị thua chết, con là Tuệ sau cũng chết vì việc quân. Vợ Định là Lê Thị Thưởng nguyên quán xã Tứ Cung huyện Bình Sơn, già yếu bệnh tật được chuẩn cấp mỗi tháng 20 quan tiền, 2 phương gạo cho đến hết đời.

Quyển 53

Ất Hợi 1875, Tự Đức năm thứ 28. Từ tháng 1. Cho Ngô Quý Thông, Nội các Thị độc sung làm Tham biện. Ngô Xuân Quỳnh bị giáng 2 cấp vì tình hình bất ổn ở Chiêm Hóa, dân xiêu tán nên không thể đóng thuế. Ngô Quý Thông (nội các thị độc) sung làm tham biện sai sửa định luật lệnh. Ngô Tất Ninh được quan tỉnh Ninh - Thái Tôn Thất Thuyết chia đường đánh giặc người Thanh. Nguyễn Quang Bích, Tế tửu Quốc Tử giám sai kiểm duyệt sách “Khâm định Việt sử cương mục”.

Quyển 54

Ất Hợi 1875, Tự Đức năm thứ 28. Từ tháng 7. Sai trong Kinh và ngoài tỉnh nghiêm cấm đánh bạc. Dân lương - giáo ở Nghệ An nghi kỵ lẫn nhau, giám mục Ngô Gia Hậu đến kinh kêu lên.

Quyển 55

Bính Tý 1876, Tự Đức năm thứ 29. Từ tháng 1. Hoàng Tá Viêm xin vua cho Tế tửu QTG Nguyễn Quang Bích sung vào sơn phòng Hưng Hóa. Suất đội Ngô Thúc Sán đi bắt giặc bị chết trận được cấp tiền tuất. Bắc Ninh bị vỡ đê lụt 192 xã thôn thiếu thuế chuẩn cho tha, hoãn có thứ bậc.

Quyển 56

Bính Tý 1876, Tự Đức năm thứ 29. Từ tháng 9. Ngô Tất Ninh sung làm tham tán đại thần đến ngay quân thứ Thái Nguyên để điều khiển đánh giặc-vì hiệp đốc Tôn Thất Thuyết bị bệnh. Tôn Thất Thuyết gượng ốm đem theo Ngô Tất Ninh đến Thái Nguyên.

Quyển 57

Đinh Sửu 1877, Tự Đức năm thứ 30. Từ tháng 1. Phúc thi các cử nhân trúng cách, có Phan Đình Phùng đỗ Tiến sỹ (tr.239). Ngô Quý Đồng được gia 1 cấp vì cử người xứng đáng dạy hoàng tử Hồng Sâm (tr.218).

Quyển 58

Đinh Sửu 1877, Tự Đức năm thứ 30. Từ tháng 7. Tướng nước Pháp đóng ở Gia Định là Du-bi-lê về Tây, La-phong đến thay. Phái Binh khoa Chưởng ấn Ngô Trọng Tố cùng với đốc phủ Hà Nội xét lại vụ án của nguyên Án sát Nam Định Nguyễn Tái giấu bớt tài sản của người tuyệt tự ủy riêng cho người nhà nhận mua  đến hơn 3.300 quan (tr.256).

Quyển 59

Mậu Dần 1878, Tự Đức năm thứ 31. Từ tháng 1. Cho Lãnh binh ở quân thứ Nghĩa-Định là Ngô Đắc Quang lĩnh Phó đề đốc ở quân thứ ấy.

Quyển 60

Mậu Dần 1878, Tự Đức năm thứ 31. Từ tháng 7. Quang lộc tự thiếu khanh Tham biện việc phủ Thừa Thiên. Đề đốc quân thứ Bắc-Thái Ngô Tất Ninh. Cho Đề đốc Sơn Tây Ngô Tất Ninh bổ sung Đề đốc quân vụ ở quân thứ Bắc Ninh. Ngô Tất Ninh được thưởng gia quân công 1 cấp, tiền vàng Tú Mỹ 1 đồng.

Quyển 61

Kỷ Mão 1879, Tự Đức năm thứ 32. Từ tháng 1. Biện lý Ngô Xuân Quỳnh bị giáng lưu do xử lý chậm việc Giám lâm phủ Nội vụ Nguyễn Hữu Thanh nhận của đút. Chưởng vệ lĩnh Đề đốc quân thứ Bắc-Thái Ngô Tất Ninh được thực thụ [Đề đốc]. Ngô Trạch đỗ Phó bảng kỳ thi Đình lấy đỗ 6 Tiến sỹ và 8 Phó bảng (tr.339). Ngô Tất Ninh làm Đề đốc quân thứ Tuyên Quang để đối phó với bọn giặc ở biên giới Lý Dương Tài nhà Thanh. Đề đốc Ngô Tất Ninh đem quân dũng đoàn luyện chia đóng các nơi để phòng dẹp giặc. Đê Văn Giang vỡ.

Quyển 62

Kỷ Mão 1879, Tự Đức năm thứ 32. Từ tháng 7. Cho Hoàng Tá Viêm, Trương Quang Đản và Ngô Tất Ninh áo rét.

Quyển 63

Canh Thìn 1880, Tự Đức năm thứ 33. Từ tháng 1. Chuẩn cho thờ thêm vào đền Trung Nghĩa 1.532 người. Họ Ngô có: Đề đốc Ngô Đức Tu. Cấm binh Phó vệ úy Ngô Văn Vãng. Phó lãnh binh Ngô Văn Toản, Quản cơ Ngô Xiết. Trấn sách quân Phó vệ úy Ngô Văn Thụy. Cai đội Ngô Văn Khám, Ngô Đính, Ngô Văn Mạo, Ngô Hữu Thành, Ngô Triêm, Ngô Triều. Suất đội Ngô Đắc Mưu. Tri huyện Ngô Trực Nghĩa. Chánh đội trưởng Ngô Văn Toại, Ngô Văn Tài, Ngô Văn Đãi, Ngô Văn Ước, Ngô Tòng Hòa, Ngô Đặc, Ngô Văn Thạnh, Ngô Văn Nhạ Chánh đội trưởng, suất đội Ngô Văn Tòng. Cấm binh, chánh đội trưởng Ngô Văn Duệ. Đội trưởng Ngô Ngọc Huyên, Ngô Văn Dưỡng, Ngô Trọng, Ngô Văn Cử. Sai Thống đốc Hoàng Tá Viêm phái ngay Đề đốc Ngô Tất Ninh đem binh dõng chia đóng trong hạt tỉnh Thái Nguyên để lo việc đánh dẹp. Phó đề đốc quân thứ Quảng Ngãi-Bình Định Ngô Đắc Quang đổi sung phó đề đốc sơn phòng tỉnh Quảng Nam. Binh khoa Chưởng ấn Ngô Xuân Mỹ tâu xin nghiêm cấm cửa quan bến tuần thu thuế quá lệ. Thi Điện lấy đỗ 5 Tiến sỹ (có Khiếu Năng Tĩnh) và 5 Phó bảng (tr.414). Giặc Man quấy cướp 2 nguyên  Chiên Đàn, Tĩnh Sơn, Ngô Đắc Quang phó đề đốc sơn phòng tỉnh Quảng Nam tâu xin đặt đồn lớn đóng quân để chặn giặc. Vua nghe theo và cho thêm 500 quân tiến đánh giặc Man.

Quyển 64

Canh Thìn 1880, Tự Đức năm thứ 33. Từ tháng 7. Ngô Đắc Quang nhiều lần tiến đánh các trại Man, khiến chúng phải kéo nhau đến hàng. Vua bảo Ngô Quý Đồng –quan ở Nội các tâu việc sơ suất, nhưng chỉ nhắc nhở. Giết bọn công tử Hồng Hoài (cưỡng lấy của dân, mưu cưỡng ép đàn bà góa): Giết Tôn Thất Sở (hung tợn bị kẻ gian ác dẫn dụ làm điều không phải). Giết Hồng Diêu (cưỡng mượn thuyền của người, bắt dân canh giữ); cả 3 đều bắt đổi sang họ mẹ. Truy tặng những người chết trận từ Tự Đức 15 đến Tự Đức 27), họ Ngô có: Cấm binh Chánh đội trưởng Ngô Đức Tuấn. Ngô Phượng Điển đánh sào huyệt giặc ở Bắc Cạn. Ngô Sung Thịnh ở Bình Định. Ngô Phượng Điển được triệu về Thái Nguyên đợi sai phái [Ngô Phượng Điển là thủ hạ của Lưu Vĩnh Phúc, nên có thể là người Tàu].

Quyển 65

Tân Tỵ 1881, Tự Đức năm thứ 34. Từ tháng 1. Cho Đề đốc quân thứ Thái Nguyên Ngô Tất Ninh đổi bổ làm Đề đốc quân thứ Hưng Yên. Phát chẩn cho dân bị đói châu Hướng Hóa thuộc phủ Cam Lộ (tr.467). Đề đốc quân thứ Hưng Hóa Ngô Tất Ninh đánh phá Vạn Dâm. Lưu Vĩnh Phúc sai bọn Ngô Phượng Điển ở Lũng Uy (Thái Nguyên). Sứ nước Pháp Lê Na đến cửa Thuận An, vua sai quan đến tiếp (tr.478).

Quyển 66

Tân Tỵ 1881, Tự Đức năm thứ 34. Từ tháng 7 nhuận. Bắc Kỳ bị bão to. Sai tỉnh Quảng Yên giao trả tù binh người nước Thanh cho Khâm Châu (tr.498). Ngô Phượng Điển luyện tập binh lính chốt chặn giữa Thái Nguyên và Cao Bằng để bắt giặc (tr.501). Quan Khoa đạo lúc này là Ngô Đôn.

Quyển 67

Nhâm Ngọ 1882, Tự Đức năm thứ 35. Từ tháng 1.Người Pháp hạ thành Hà Nội, Tổng đốc Hoàng Diệu tự tử. Thống đốc Hoàng Tá Viêm, Kinh lược Nguyễn Chính, Bùi Ân Niên dâng sớ xin đánh (tr.519), vua không cho. Huyện Cẩm Thủy (Thanh Hóa) ruộng đất hoang 1.437 mẫu, tri huyện Ngô Hữu Tạo đã khẩn hoang chịu thuế 376 mẫu (tr.526). Phạm Viết Duy (Chính Mông, Quảng Ngãi) bị cách Cử nhân về tội trong khi cư tang lại đi lấy vợ của bạn đồng khoa là Phan Nghị (tr.532).

Quyển 68

Nhâm Ngọ 1882, Tự Đức năm thứ 35. Từ tháng 6. Nhân khi Pháp hạ thành Hà Nội, 3 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam đem nhiều quân đến đóng ở ven biên giới Trung - Việt. Khi ấy Tuần phủ Hưng Hóa là Nguyễn Quang Bích chưa biết xử lý ra sao, mới đem việc tâu vua. (tr.538). Vua mắng “lấy lòng kẻ tiểu nhân  đo bụng người quân tử. Người nước Thanh đâu có làm việc bất nghĩa như thế” (tr.539). Phó đề đốc sơn phòng tỉnh Quảng Nam Ngô Đắc Quang xin mở một con đường đồn phía đông và đồn phía tây, vua không cho.

Quyển 69

Quý Mùi 1883, Tự Đức năm thứ 36. Từ tháng 1. Tướng nước Pháp ở Gia Định là Lê My về Tây, Tam Sung đến thay. Cho Chưởng vệ Ngô Đạt lĩnh Đề đốc Nghệ An. Quân Pháp sang sông sấn vào chỗ đóng quân của ta Gia Lâm khiêu chiến, Tổng đốc Bắc Ninh Trương Quang Đản và Kinh lược Phó sứ Bùi Ân Niên cũng đem quân tiếp ứng đánh giết 9 tên Pháp, chúng rút xuống tàu chạy về Đồn Thủy (tr.562). Quan quân thứ Sơn Tây đánh quân Pháp ở Cầu Giấy, quân Pháp bị quân Lưu Vĩnh Phúc đánh thua chạy, tên Vi-e bị chém chết ở cửa ô, quân Pháp chết 20 bị thương 60, Ngô Phượng Điển lĩnh chức Phó lãnh binh (tr.570). Vua ốm, làm sẵn tờ di chiếu cho Hoàng trưởng tử nối ngôi.. Ngày 16 (Giáp Tý), giờ Thìn, vua mất ở điện chính Càn Thành. Hoàng trưởng tử Thụy Quốc công khóc lạy nhận mệnh.

Quyển 70- PHỤ CHÉP VUA BỊ TRUẤT BỎ

Trước cho đặt tên là Hồng Dật, con thứ 29 của Hiển tổ Chương Hoàng đế [Thiệu Trị]. Nhân vua nối Ưng Chân [Dục Đức] bị bỏ được lập làm vua. Quý Mùi 1883, Tự Đức năm thứ 36, ngày Mậu Thìn Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết bỏ vua nối ngôi, lập em út vua  là Lãng Quốc công Hồng Dật [Hiệp Hòa], lấy năm sau là Năm Giáp Thân làm Hiệp Hòa năm đầu. Cho Bố chính lĩnh Tuần phủ Hưng Hóa là Nguyễn Quang Bích. Nêu thưởng dân thọ 100 tuổi ở Quảng Ngãi là Ngô Văn Hợp và 4 người khác. Tháng 8 ngày Kỷ Dậu rước quan tài vua đến bến sông Hương lên thuyền rồng (do xuồng máy kéo) đến bến đò Khiêm Cung, ngày Canh Tuất đặt quan tài ở điện Hòa Khiêm. Ngày Đinh Sửu, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết phế vua, giết đi và giết cả đại thần Trần Tiễn Thành, lập Hoàng tử thứ 3 lên làm vua (tr.609).
(Hết tập tám)

(Còn tiếp)
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây