Hoàng - Đế - Vương - Vua:  hiểu thế nào cho đúng? 

Thứ bảy - 11/06/2022 23:35

Trong chế độ quân chủ, các từ Hoàng, Đế, Vương đều dùng để chỉ ông vua, người giữ địa vị cao nhất của một quốc gia, tuy nhiên mỗi từ lại được dùng ở một giai đoạn và cấp độ khác nhau. Chúng ta cùng tìm hiểu thêm ý nghĩa của chúng.
 
Nhà Chu năm 260 TCN. Ảnh Internet

Nhà Chu được ghi nhận là triều đại tồn tại lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa, kéo dài tới hơn 800 năm với 37 triều vua. Các vua nhà Chu đều mang vị hiệu Vương (王). Xung quanh Chu là hệ thống hàng chục nước chư hầu được Chu Vương ban tước (thường người đứng đầu nước chư hầu được ban tước Công). Vào giai đoạn cuối, nhà Chu dần trở nên suy yếu, các nước chư hầu nổi lên đánh chiếm, thôn tính lẫn nhau, hình thành một số nước lớn. Các nước này cũng xưng Vương, tự coi ngang hàng với nước Chu.

Năm 249 trước công nguyên (TCN), nước Tần, một nước chư hầu hùng mạnh cử Lã Bất Vi đem quân đánh chiếm nước Chu, nhà Chu bị diệt vong. Sau đó, Tần Vương Doanh Chính lần lượt đánh thắng tất cả các nước khác còn lại, năm 221 TCN làm nên công nghiệp to lớn chưa từng có: bình định thiên hạ, thống nhất Trung Nguyên. Sau khi thống nhất Trung Hoa, cảm thấy danh xưng “Vương” là không thích hợp, Tần Vương lệnh cho quần thần bàn bạc để tìm ra một danh xưng xứng đáng.

Trước nhà Chu, lịch sử Trung Quốc có 8 vị vua huyền thoại gọi là “Tam Hoàng Ngũ Đế” (ba vị Hoàng và năm vị Đế). Tam Hoàng là ba vị Vua đầu tiên của Trung Hoa, gồm Phục Hy, Thần Nông và Toại Nhân. Còn Ngũ Đế là năm vị Thánh Vương bao gồm: Hoàng Đế (黃帝 - chữ Hoàng này có nghĩa là màu vàng), Chuyên Húc, Đế Khốc, Đế Nghiêu và Đế Thuấn.
“Tam Hoàng Ngũ Đế” (三皇五帝) được coi là những người vâng Thiên ý để trị vì quốc gia, dùng đức hạnh để giáo hóa dân chúng. Họ không chỉ được người dân nơi nơi kính trọng mà còn trở thành mẫu hình tiêu chuẩn của bậc Quân Vương.

Tại buổi thiết triều, Thừa tướng Lý Tư và quần thần đã dâng tấu lên Tần Vương, tâu rằng: “Ngày xưa đất của Ngũ Đế rộng ngàn dặm nhưng không khống chế hết, nay Đại Vương thu hết về một cõi, sánh ra còn hơn 5 vị Đế, vậy nên phải so với 3 vị Hoàng. Mà trong 3 vị Hoàng này (Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Thái Hoàng) thì Thái Hoàng là cao nhất. Vậy thì Đại Vương nên xưng là Thái Hoàng!”
 
Tần Vương Doanh Chính (Tần Thủy Hoàng) 259 - 210 TCN. Ảnh Internet

Tần Vương nghe rồi truyền bảo: “Bỏ chữ Thái, giữ chữ Hoàng, dùng vị hiệu Đế thời thượng cổ ghép lại, gọi là Hoàng Đế”. Như vậy, Hoàng đế (皇帝) chính là được kết hợp từ hai danh xưng tôn quý là “Hoàng” (皇) và “Đế” (帝) của thời cổ đại mà thành. Và Tần Vương Doanh Chính trở thành vị Hoàng Đế đầu tiên của Trung Hoa, gọi là Thủy Hoàng Đế, tức Tần Thủy Hoàng.

Từ đó, từ Hoàng Đế để chỉ người đứng đầu cao nhất của xã hội phong kiến phương Đông. Các ngôn ngữ đồng văn có khi vẫn dùng đơn tự Hoàng hoặc Đế để gọi tắt, nhưng luôn hiểu là Hoàng Đế. Cũng từ đây Chữ Vương (王) được dùng làm tước vị để ban cho anh em họ hàng nhà Vua (Thân Vương) hoặc phong cho Vua các nước phụ thuộc, trong đó có cả các nước phiên bang: Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản.

Nước ta mỗi khi một vị vua lên ngôi, trong nước vẫn tự xưng Hoàng Đế để tỏ ý ngang hàng với Trung Quốc. Đây là vấn đề mang tính nghi thức nhưng thể hiện quan điểm độc lập xuyên suốt trong quan hệ ngoại giao Việt - Hoa thời trước. 
Tuy nhiên, dù là nối ngôi, tranh ngôi hay cướp ngôi, vua Việt thường phải cho người sang cầu phong để lấy tính chính danh. Các vua Việt Nam được phong là An Nam Quốc Vương, đến đời Nguyễn thì phong là Việt Nam Quốc Vương; trước đó có lúc chỉ phong là Giao Chỉ Quận Vương. Sử sách Tàu chép về các vị vua nước ta đều chỉ ghi là Vương, thể hiện vua Việt Nam phải dưới họ một bậc. Năm 1885 Chính phủ thuộc địa Pháp và nhà Thanh ký Hòa ước Thiên Tân, quy định nhà Thanh công nhận nền bảo hộ của Pháp đối với Việt nam, đồng thời hủy bỏ lệ triều cống của triều đình Huế ở địa vị phiên quốc đối với nhà Thanh. Bắt đầu từ đây chấm dứt quan hệ chư hầu của Việt Nam đối với Trung Quốc.

Khác với Việt Nam, các triều đại phong kiến Triều Tiên thường thần phục Trung Quốc nên các vị vua không dám tự xưng Hoàng Đế mà chỉ nhận tước Vương, mặc bào đỏ suốt cho đến khi quân Nhật vào xâm lược đầu thế kỷ 20 thì mới dám xưng Đế rồi mất nước.

Còn Nhật Bản do ở xa xôi cách trở nên cũng không quan tâm lắm tới việc này. Vua Nhật lúc nào cũng xưng Thiên Hoàng. Tướng Toyotomi Hideyoshi từng đem quân sang đánh Triều Tiên và đánh nhà Minh vào cuối thế kỷ 16. Nhà Minh cầu hòa bằng cách phong Vương cho ông nhưng Hideyoshi sợ phật ý Thiên Hoàng nên không chịu và đánh tiếp nhưng rồi bại trận.
Sau cuộc chiến này, nhà Minh kiệt quệ rồi bị Mãn Thanh chiếm, Nhật thì thống nhất chư hầu rồi bế quan, không chơi với ai nữa. Từ đó nước Tàu có lẽ cũng không quan tâm lắm đến việc vua Nhật Bản xưng là gì.

 

Tổng số điểm của bài viết là: 14 trong 3 đánh giá

Xếp hạng: 4.7 - 3 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Mã bảo mật   
Liên kết website
Thống kê
  • Đang truy cập173
  • Máy chủ tìm kiếm2
  • Khách viếng thăm171
  • Hôm nay33,528
  • Tháng hiện tại789,641
  • Tổng lượt truy cập40,626,803
Đăng ký
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
Mã bảo mật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây