Nền tảng mô hình gia đình truyền thống Việt Nam hiện nay không mất đi nhưng đang bị phá vỡ, hệ thống giáo dục tôn ti trật tự, nếp sống văn hóa bị thất truyền.
1. Khái niệm gia đình
Gia đình là nhóm thành viên có quan hệ huyết thống hoặc ngoài dòng máu, sống chung dưới một mái nhà theo trật tự quy ước do người đứng đầu đặt ra mang tính truyền thống lịch sử gia tộc. Gia đình là nơi đáp ứng nhu cầu sinh hoạt mỗi thành viên, cấu trúc xã hội cộng đồng riêng biệt của một nhóm người. “Gia đình, một công cụ liên hệ con người với xã hội, hình thành sớm trải qua quá trình phát triển lâu dài”(1).
Dưới các triều đại phong kiến Việt Nam, gia đình được xã hội công nhận, hình thành nên các dòng tộc, lưu lại lịch sử trong gia phả cho con cháu đời sau. Đây là mô hình cấu trúc gia đình truyền thống người Việt, trải qua ngàn năm lịch sử để lại gương sáng muôn đời. Ngày nay, quan hệ gia đình từ hôn nhân do Nhà nước công nhận.
Hiện nay, xuất phát từ sự thay đổi cấu trúc xã hội, khái niệm gia đình đã mở rộng nội dung từ gia đình lên thành hộ gia đình. Ngoài những cặp vợ chồng do hôn nhân hình thành gia đình, hộ gia đình còn có thể là một nhóm người độc thân sống cùng với nhau mà không có quan hệ huyết thống gia tộc. Dù sống chung dưới một mái nhà nhưng hộ gia đình hiểu thành một khái niệm: nhóm người sống tập thể theo quy ước tương đối, cùng nhau, cùng tồn tại. Khái niệm gia đình từ truyền thống đã thay đổi theo cấu trúc xã hội, phát triển thành nhiều mô hình.
2. Mô hình gia đình truyền thống Việt Nam
Gia đình truyền thống Việt Nam trải qua hàng ngàn năm lịch sử theo quan hệ huyết thống dòng tộc, tồn tại hai chế độ là mẫu hệ và phụ quyền. Hiện nay, đa số đồng bào các dân tộc Tây Nguyên theo chế độ mẫu hệ, người Brâu, Khơ mú thì theo song hệ. Người Việt theo phụ quyền, người đàn ông đứng chủ gia đình thường quyết định mọi công việc.
Ở đây, chúng tôi quan tâm tới mô hình gia đình truyền thống người Việt theo chế độ phụ hệ, nơi người chồng toàn quyền quyết định công việc. Gia đình truyền thống thông thường có ba đời sống chung dưới một mái nhà tam đại đồng đường, cao hơn thì có tứ, ngũ đại đồng đường. Từng gia đình có gia pháp riêng. Trong xã hội phong kiến Việt Nam, hầu hết là nông dân, còn tầng lớp tiểu thương, nho học rất hiếm, nền giáo dục gia phong chủ điểm ảnh hưởng Nho giáo, Phật giáo. Đa số người nông dân học thấp, không biết chữ nhưng ứng xử gia đình, xã hội lại rất văn hóa, văn minh, đôn hậu. Trong xã hội ngày nay, vẫn rất cần phải tu tâm, học hỏi văn hóa lối sống, nghệ thuật ứng xử của hình mẫu gia đình truyền thống người Việt xưa. Phong tục người Việt ra đời từ các hình mẫu gia đình, gia tộc đã để lại nhiều châm ngôn giáo dục nhân cách, văn hóa, kinh nghiệm sống cho con người. Người nông dân Việt Nam xưa để lại dấu ấn về một hình mẫu văn hóa gia đình nền nếp, gia phong, xây dựng con người hướng thiện. Nhiều tập tục văn hóa đến nay nếu bỏ đi sẽ đánh mất bản tính người dân đất Việt. Người nông dân ngàn đời sống khép mình trong lũy tre làng, hình thành lệ thức văn hóa tâm linh, kinh nghiệm sản xuất canh nông trồng lúa, hoa màu, ra đời cấu trúc hệ thống các loại hình nghệ thuật sông nước vùng đồng bằng gắn với tục lệ gia đình. Mô hình gia đình truyền thống người Việt tồn tại nhiều tục lệ văn hóa như cúng giỗ tổ tiên, dạm ngõ, hỏi cưới, quan hệ tình làng nghĩa xóm… Những mối quan hệ văn hóa ứng xử, lối sống gia đình ghi lại nhiều câu phong dao, hình thành hệ thống giáo lý gia đình và thiết chế nền tảng đạo đức xã hội. Các gia đình dựa trên nền tảng luân lý đạo đức lưu truyền từ đời này sang đời khác để giáo dục con cháu sống tôn ti trật tự, có nghĩa vụ, được hưởng quyền lợi. Gia đình nào có người vi phạm luật tục sẽ bị người làng khinh rẻ, xấu hổ không dám đi ra đường. Người dân xưa rất biết trọng danh dự, không ai dám tự ý làm bừa, coi thường dư luận, vi phạm gia phong, hương ước, luật tục làng xã.
Mô hình gia đình truyền thống Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại ở những khu phố cổ Hà Nội, một số làng cổ vùng quê. Mô hình ấy biểu thị trong một gia đình còn tồn tại tam, tứ đại đồng đường. Ông bà, con cháu sống chung trong một gian nhà, hoặc ngôi nhà có sân vườn, hàng cau, bờ ao, giếng khơi, cây mít, nhà ngói sân gạch. Những gia đình bậc trung lưu này giáo dục con cháu rất bài bản, nghiêm khắc, dạy từng lời ăn, tiếng nói, văn hóa ứng xử làm người. Cổ phương gọi là lời ăn, bởi trước khi ăn phải có lời. Người con gái thường ngồi hai bên đầu nồi cơm, khi bê bát, cầm đũa lên phải mời ông bà cha mẹ, khi ăn không được gắp trước bất kể món nào. Theo thứ tự, ông bà cha mẹ gắp xong mới đến lượt con trai, con gái, sau cùng mới đến con dâu. Gia đình người Việt rất coi trọng bữa cơm, bao giờ cũng phải đợi đủ người mới ăn. Con dâu không được ngồi ăn cơm với bố chồng, còn có gia đình con dâu và người ở ăn sau cùng dưới bếp, không được ăn cơm trước bố mẹ chồng. Mỗi gia đình có một luật lệ giáo dục con cháu riêng, sự phân biệt ngôi thứ mang tính phong kiến. Chính từ những nét văn hóa truyền thống này, các gia đình xưa đã ngăn chặn nhiều hành vi tội ác, giữ cho mái ấm tình thương, xóm làng hòa thuận, vợ chồng hạnh phúc. Các gia đình hiếm, hoặc không diễn ra những vụ to tiếng xô xát, làm hàng xóm mất ăn, mất ngủ như thời nay.
Mô hình gia đình truyền thống Việt Nam để lại một hệ thống văn hóa ứng xử, giáo dục lối sống để con người chăm chỉ, cần cù nhẫn nại, biết tôn ti trật tự, hành xử văn hóa. Mô hình gia đình ấy phát triển cùng nền kinh tế xã hội nông nghiệp, hình thành nhiều đức tính nhân cách con người Việt Nam: thật thà, chân tình, đôn hậu, nhân ái, bao dung. Những người sinh ra trong môi trường gia đình gia giáo được thừa hưởng nhiều đức tính truyền thống, khiến con người hướng thiện, xã hội bình an.
3. Mô hình gia đình hiện đại
Nền tảng mô hình gia đình truyền thống Việt Nam hiện nay không mất đi nhưng đang bị phá vỡ, hệ thống giáo dục tôn ti trật tự, nếp sống văn hóa bị thất truyền. Sự hội nhập kinh tế, văn hóa toàn cầu đang quốc tế hóa gia đình, làm biến đổi lối sống, đạo đức con người, xuất hiện nhiều mô hình gia đình thời đại mới. Đây là nguyên nhân ra đời các hình thức sinh hoạt đối nghịch mô hình gia đình truyền thống. Tuy nhiên, mỗi gia đình vẫn còn giữ được những nét riêng, các quốc gia dân tộc vẫn mang bản sắc gia tộc khác biệt.
Sự phát triển như vũ bão của những khu kinh tế công nghệ cao khiến các làng quê bỗng chốc trở thành đô thị. Văn hóa văn minh đô thị chưa ra đời kịp bước chuyển, mọi sự giao lưu tiếp nhận đều không cơ bản, vẫn còn thiếu nền móng tri thức. Lớp người mới phải cùng một lúc tiếp nhận nhiều chiều văn hóa ứng xử: văn hóa đô thị, văn minh dân chủ phương Tây. Văn hóa gia đình truyền thống bị đứt gãy, trở thành cổ hủ, không còn được lưu giữ và quan tâm. Đây là nguyên nhân dẫn đến việc con người hành động mất phương hướng, cực đoan, gây ra nhiều tệ nạn xã hội. Tại các nước phát triển Mỹ và phương Tây, họ đã có cả hàng trăm năm thực hiện sửa đổi luật pháp, lối sống hành vi con người để thực hiện tự do dân chủ và đến nay vẫn còn tiếp tục chỉnh sửa cho phù hợp thực tiễn đời sống xã hội. Đất nước ta mới thoát ra từ nông nghiệp lạc hậu, kinh tế chắp vá, nhiều đứt gãy văn hóa truyền thống, đòi hỏi tự do dân chủ là điều không tưởng. Trình độ dân trí còn phải nâng cao nhiều thì người dân mới đủ bản lĩnh tiếp thu văn hóa văn minh phương Tây thời hội nhập. Thực tiễn đã chứng minh giới trẻ Việt Nam tiếp thu rất nhiều lối sống từ giới trẻ Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản.
Chỉ trong năm 2013 và 2014, giới trẻ Việt đã tiếp nhận 40 trào lưu lối sống mới. Năm 2015 - 2016, có trên 30 trào lưu sống thâm nhập giới trẻ Việt: hôn trộm, xem ảnh đoán tuổi, cô dâu tám tuổi, cô dâu ngàn tuổi, nhái thương hiệu, thời trang váy, cài khuy trắng phía trước, đồng âm khác nghĩa, hôn nhân đồng tính… Những trào lưu sống mới đã náo loạn giới trẻ, gây nên nhiều biến thái tiêu cực như tự hành xác cắt sẹo trên tay, trào lưu thú tội biến thái kể chuyện hài hước trêu chọc giáo viên… Những trào lưu này tràn vào xã hội Việt Nam, phá vỡ đạo đức, lối sống dân tộc ở lớp người mới, biến họ thành kẻ khinh đời khác người. Đây là nguyên nhân dẫn đến các cuộc hôn nhân vội vã, tình trạng sống tạm, sống ngoài giá thú, ly hôn phổ biến ở đủ mọi lứa tuổi. Ly hôn là một trong những nguyên nhân thay đổi mô hình gia đình.
Mô hình gia đình thời kinh tế thị trường phổ biến tại thành thị và các vùng quê đổi mới. Trong xã hội truyền thống, người phụ nữ lo việc sinh đẻ nuôi con, chăm sóc gia đình, việc ly hôn là một điều cấm kỵ. Bây giờ, họ được tự do lựa chọn, tự do ly hôn từ tiếp nhận lối sống xã hội, kinh tế thực dụng thời nay. Gia đình thời kinh tế thị trường có nhiều biến đổi, hình thành các mô hình mới: gia đình một vợ một chồng, một hoặc hai con, không có ông bà hay anh em dưới một mái nhà; ông bà già đơn thân, hoặc hai ông bà già tự chăm sóc nhau, còn con cháu ở chỗ khác; gia đình sống ngoài giá thú; gia đình đồng tính; gia đình nhóm.
Kinh tế thị trường đã làm thay đổi căn bản hình mẫu gia đình truyền thống tại các khu công nghiệp, thành phố, vùng nông thôn đô thị hóa. Những thay đổi tận gốc nền tảng văn hóa gia đình Việt Nam truyền thống đã làm băng hoại nhân cách lớp người xã hội thời kinh tế thị trường. Họ sống thực dụng trong xã hội tiêu thụ, thiếu trang bị văn hóa đạo đức truyền thống, sống tự do dân chủ ngoài vòng pháp luật dẫn đến các tệ nạn xã hội. Hình mẫu gia đình Việt Nam hiện nay đang diễn ra nhiều bất ổn nhưng lối tư duy thành tích, người quản lý gia đình lại chưa thay đổi. Một số dự án ở địa phương báo cáo thành tích tăng cao thì cùng vào thời gian ấy lại xuất hiện một nghịch lý: nạn bạo lực với vợ con, người làm thuê… lan rộng khắp cả nước, được nêu trên các phương tiện phát thanh truyền hình như một lời kêu gọi ngăn chặn hình vi bạo hành gia đình. Cần phải thông tin trung thực, nhìn thẳng vào sự thật để sửa chữa, khắc phục những tiêu cực của xã hội hiện nay. Giáo dục thế hệ trẻ đầu tiên là từ nền tảng văn hóa gia đình, sau mới đến xã hội, đoàn thể quần chúng, chính quyền. Gia đình là hạt nhân phát triển con người, xây dựng xã hội tương lai.
4. Lối sống gia đình hiện nay
Lớp người thời kinh tế thị trường sống tiện nghi, tốc độ, thực dụng, đa phần nghĩ về mình nên dần tiến đến chủ nghĩa vô cảm. Tuy vậy, những gương người tốt còn nhiều, các phong trào tích cực được phát huy rộng rãi, tuy nhiên chưa lôi cuốn được đa số giới trẻ.
Lớp người mới quen đòi hỏi, thích làm ít hưởng nhiều, sống bất cần đời. Đây là con đường dẫn đến tội phạm và các tệ nạn xã hội. Cần phải nhìn thẳng vào sự thật để tìm ra giải pháp xây dựng gia đình hạnh phúc, không chạy theo thành tích hay khuyên dạy những lời giáo điều không phù hợp với lớp người trẻ hôm nay. Giải pháp xây dựng gia đình hiện nay là: nâng cao văn hóa, dân trí cho cả các bậc cha mẹ và con cái; giáo dục phát huy truyền thống văn hóa ứng xử gia đình truyền thống Việt Nam, từ các áng ca dao trong tuổi trẻ học đường và gia đình; Nhà nước cần hoàn thiện Luật Bình đẳng giới, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Dân sự…, ngăn chặn hiệu quả bạo lực gia đình trên toàn xã hội bằng hành động cụ thể, thực hiện nghiêm pháp luật.
Ngoài ra, còn cần xây dựng chiến lược phát triển gia đình Việt Nam bằng hành động cụ thể: lập các dự án dạy nghề, phát triển trí tuệ tuổi trẻ nâng cao tinh thần học tập, nghiên cứu khoa học; động viên, khen thưởng kịp thời nhân tố tích cực các gia đình con cháu thành đạt, xây dựng phát triển mô hình gia đình văn hóa, văn minh thời kinh tế thị trường. Có như vậy, gia đình sẽ là điểm tựa hạt nhân, cùng môi trường xã hội phát triển nhân cách, tài năng trí tuệ con người thời đại.
(1) Nguyễn Văn Tịnh, Ngô Công Hoàn, Giáo trình Giáo dục gia đình, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2016, tr.12