Đền Thượng Tiết xây dựng từ xa xưa. Theo truyền tụng của địa phương, Ngô Quyền đã hai lần dừng chân qua đây, khi người từ Đường Lâm vào Châu Ái (bản doanh của Dương Đình Nghệ); và từ Châu Ái ra thành Đại La diệt phản nghịch Kiều Công Tiễn, và đánh giặc Nam Hán. Đây là con đường thượng đạo từ Ái Châu ra thành Đại La, có qua Thượng Tiết bằng đường sông Đáy. Khi qua đây, Ngô Quyền đã chiêu mộ thêm quân sĩ. Với trí dũng mưu lược, Ngô Quyền đã cầm quân đánh bại đại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng (cuối năm 938), chấm dứt hơn nghìn năm nạn Bắc thuộc, đem lại nền độc lập tự chủ cho dân tộc. Để ghi nhớ công ơn đức vương Ngô Quyền, nhân dân nơi đây đã lập đền thờ. Hàng năm vào ngày 18 tháng Giêng (Âm lịch) giỗ đức vua, và hai ngày: 3/ 6, 3/10 ghi nhớ hai lần ngài qua đây, trong vùng lại tổ chức lễ dâng hương lên Ngô Vương Quyền.
Nơi đây là vùng chiêm trũng nên hay bị ngập lụt. Trước kia Đền cổ nằm ở phía ngoài sông Thanh Hà (chảy ra sông Đáy), có năm lụt. nước dâng ngập cả ngôi đền. Vì thế, đền đã di dời vào nơi đây cao ráo. Thời gian trải dài, qua nhiều thời đại, lại hay ngập lụt, nên các tài liệu, giấy tờ của đền (*) bị hư hỏng, mất mát. Không ai còn nhớ năm tháng xây dựng đền xưa? và năm di dời cũng không nhớ là năm nào? Đền chuyển vào nơi đất cao (xưa gọi là Long Cốt Sơn), trước đấy có mộ tổ họ Vũ, mộ đã di dời, nhưng khối đá đen lớn còn nằm lại, nay vẫn ở sau Hậu cung đền. Một số hiện vật của đền cổ còn giữ được, trong đó có pho tượng đức vua Ngô Quyền. Ngước đọc dòng chữ Hán khắc trên xà nóc Hậu cung ghi: “Bảo Đại thất niên trùng tu”. Đó là năm 1932 đền được tôn tạo. Đến khoảng năm1950, đền bị bom đạn của thực dân Pháp phá hỏng nhiều chỗ. Phần Hậu cung và tượng thờ rất may không bị phá. Đến năm 1959 dân làng hưng công dựng lại, nhưng kiến trúc thu hẹp. Gần đây đền lại được hưng công tôn tạo vào các năm1996, 2001 và 2011. Hiện Đền và Chùa Thượng Tiết nằm chung trong một khuôn viên, rộng khoảng hơn một héc ta.
Về nghệ thuật tạo hình, tại Hậu cung đền còn lại pho tượng cổ, chạm gỗ, sơn son thếp vàng theo lối truyền thống thế kỷ XVIII. Đó là tượng Đức Vương Ngô Quyền uy nghiêm, ngự trên ngai Rồng. Gương mặt oai phong, mắt nhìn thẳng. Trên đầu đội Vương miện Bình Thiên, phía trước chạm “mặt trời - mây lửa”, xen giữa là hai vì Tinh Tú cùng tỏa sáng. Đăng đối từ hai mé bên là Rồng ngẩng cao đầu chầu vào. Quanh vương miện đều chạm Rồng. Tầng phía trên đỉnh (trước/sau/hai má bên) đều chạm hai lớp chạm đăng đối “Lưỡng Long chầu nhật” tạo sự uy nghi. Nói lên ý nghĩa xưng vương của Ngô Quyền. Hai tay đức vương cầm nâng “mặt trời - mây lửa trên mình Rồng”. Dáng ngồi đường bệ trên ngai. Đăng đối hai tay ngai là đôi Rồng dũng mãnh đang ngẩng cao đầu. Bờm rồng 5 dải uốn lượn ra sau theo hình mây đao. Long Bào đức vua mềm mại các nếp y phục, lộng lẫy với những hình Rồng. Hai chân đi giày, đặt song hành, nhô ra hai góc bệ ngai, có hai đầu Rồng hướng ra hai bên. Tượng “dính” liền bệ ngai.
Kích thước tượng: Vương miện Bình Thiên (mặt bên) Từ đỉnh Vương miện xuống bục xi măng cao 211 cm. Mặt cao19 cm, ngang 18 cm. Hai lớp Vương miện vua, Lớp trên đỉnh cao 23cm, cạnh 37 cm x 36 cm, dật cấp 33 cm x 28 cm. Lớp dưới ôm sát đầu, cao 23cm, cạnh 17 cm, x18 cm. Tổng thể từ đỉnh Vương miện xuống cổ áo 60cm. Vai tượng 36 cm, Từ vai xuống đai lưng 43 cm. Từ đầu gối xuống bệ 44 cm. Chiều ngang hai đầu gối 45cm, ngang hai đầu giầy 50 cm. Vật vua cầm trên tay cao 27cm là“Vòng Mặt trời mây lửa trên đầu Rồng”.
Ngai tượng: Lưng ngai xuống mặt bệ 130cm. Ngang: trên 56 cm, giữa 17 cm, dưới 40 cm. Mặt lưng chạm cảnh “Cá vượt vũ môn, hóa Rồng”, hai bên có Lân chầu, Rùa đội thư đón mừng. Tay ngai 66 cm, nhô đầu Rồng. Chắn song chạm mỗi bên 3 cái: ngoài 59 cm; giữa 62 cm; trong 64 cm. Bệ ngai: ngang 73 cm x sâu 61 cm x cao 63 cm cách nền bệ xi măng 20cm. Bệ xi măng đặt Tượng và Ngai: Cao 100 cm, dài/rộng 165cm. Gian đặt tượng có 4 Cột: khuôn viên vuông, mỗi cạnh 210 cm. Tương quan tỷ lệ giữa tượng/Ngai và bệ hợp lý.
Điều đặc biệt của pho tượng Đức Vương Ngô Quyền được phát hiện là: Nghệ nhân tạc trọn vẹn cả hai bàn chân đức vua. Sau đó mới tạc đôi giầy lồng vào hai chân, mới hoàn chỉnh tượng đức vua ngồi trên ngai. Tượng và Ngai chạm tinh tế, sơn son thếp vàng rực rỡ. Đây là điều trân trọng tâm linh thờ tự, và cũng là điều bí ẩn của nghệ thuật tạc tượng Đức Vua, ở thê kỷ XVIII. Lối làm tượng: tạc chân đầy đủ, sau mới tạc giầy lồng vào còn thấy ở tượng Ngô Quyền thờ ở Đền Sải, Thôn Hiền Lương, xã An Tiến, huyện Mỹ Đức (cách đền Thượng Tiết không xa). Mặc dầu hai tượng của hai đền khác nhau đều thờ Ngô Quyền.
Ý nghiã: Về nghệ thuật tạo hình: Pho tượng “Đức vương Ngô Quyền” hoàn chỉnh, đẹp, có giá trị nghệ thuật mang phong cách tượng truyền thống thế kỷ XVIII. Sự phát hiện tác phẩm Mỹ thuật cổ này trong kho tàng nghệ thuật Truyền thống để mọi người cùng được biết. Cổ vật quan trọng và ý nghĩa về nghệ thuật, phong cách và niên đại đã khẳng định sự tồn tại của ngôi đền cổ trong lịch sử Văn hóa đất nước.Trong đền còn một số Cổ vật đồ thờ/Các binh khí (chạm gỗ), Câu đối, Sắc phong (**), Nề ngõa: ngựa… thuộc thời Nguyễn.
Về mặt Lịch sử: di tích đền thờ ghi dấu sự kiện Ngô Quyền đã 2 lần qua đây. Cho ta hình dung về tuyến hành quân của Ngô Quyền từ Châu Ái ra thành Đại La trừ phản tặc Kiều Công Tiễn, và đánh thắng giặc Nam Hán.Điều mà chưa thấy biên chép trong các sách lịch sử. Ta chỉ thấy sự chép lại của nhau của các sử gia, quá ngắn về Ngô Quyền.
Đền Thượng Tiết xây dựng có gốc xa xưa để nhớ sự kiện Ngô Quyền với địa danh này. Nhưng hiện vật thời xưa ấy đã bị mai một. Chỉ biết đền đã di dời. Các mốc niên dại trùng tu đền còn biết là các năm: 1932, thời Bảo Đại, 1959 thời Việt Nam dân chủ cộng hòa. và gần đây thời Cộng hòa XHCN Việt Nam: Các năm 1996 xây dựng kiến trúc cổng; Năm 2001 và 2011 tôn tạo gian Tiền tế, làm Câu đối, Đồ thờ. Hiện trạng đền rất cần được quan tâm hơn nữa của nhà nước để bảo vệ và tôn tạo di tích, tôn vinh xứng tầm ngôi đền thờ một vị vua - người anh hùng dân tộc Trung Hưng đất nước..
Dưới đây là một số hình ảnh chi tiết:
Chú Thích
(*) Các văn bản sự tích đền thờ Tiền Ngô Vương ở Mỹ Đức được lưu giữ tại Đền rất sơ sài. Được biết các tư liệu di tích còn lưu giữ tại Đền Bách Linh. Vì xưa kia, nơi đây thuộc chung phủ Hoài An, Tổng Trinh Tiết nên toàn bộ Thần phả, các Sắc phong Chỉ dụ tôn thờ của các triều đình Phong kiến cấp, đều đưa về phủ này sao lưu cất giữ. Đền Bách Linh là trung tâm của phủ xưa, nên các tư liệu của 30 ngôi đền trong vùng hiện nay đều vẫn nằm ở đây. Chúng tôi đã tìm đến đền Bách Linh (ở thôn Dư Xá, xã Hoài Nam, Ứng Hòa) xuất trình giấy tờ, yêu cầu được chụp các tài liệu. Đó là các bản sao chép bằng chữ Hán về đền Thượng Tiết. Lại đến Đền Sải (cùng trong Mỹ Đức) cũng thờ Ngô Quyền, để tìm chụp thêm tư liệu Hán tự /Sắc phong. Nội dung các tài liệu: Văn bản sự tích /Thần phả/ Sắc phong … được chúng tôi tra cứu/ đọc/dịch ra quốc ngữ - để đối chứng và tiện hiểu biết cho ban di tích nhà đền. Nội dung “Văn bản sự tích” của đền thờ Ngô Quyền ở Mỹ Đức. Được ghi như sau: (1)- Nhân vật thờ của đền là: Tiền Ngô Vương, húy Quyền. Ghi rõ đặc điểm, diện mạo, Uy quyền, công lao, uy thế đánh thắng giặc Nam Hán trận Bạch Đằng. Lên ngôi lập đô Cổ Loa. Đền thờ chính của Ngài là thuộc địa danh: “Sơn Tây tỉnh, Quảng Oai phủ, Phúc Thọ huyện, Cam Lâm xã”. (2)- Nhân dân lập đền thờ phụng tại Hoài An huyện, Thượng Tiết xã. Dựng ngôi Miếu thờ: Đền chính nội ngoại Đại bái 5 gian bằng gỗ lợp ngói (năm 1810). Sau dựng ngôi Đình 3 gian, 2 chái bằng gỗ lợp ngói. (3)- Đệ niên Tế hưởng chính nhật tại hữu, là các ngày/ Âm lịch trong năm nhân dân làm lễ: Ngày giỗ 18 tháng 1, và Ngày 3 tháng 6, ngày 3 tháng 10. (4)- Triều đình cấp sắc chỉ: Về địa danh ghi: Hà Nội tỉnh, Hoài An huyện, Trinh Tiết Tổng, Thượng Tiết xã. Tòng tiền phụng sự Tiền Ngô Vương Miếu.
(**) Sắc phong: còn giữ 8 đạo sắc phong thời Nguyễn: (1)- sắc chỉ: Hoài An huyện, Thượng Tiết xã Tòng tiền phụng sự Tiền Ngô Vương: Năm Gia Long cửu niên (9), bát nguyệt, Sắc phong thời Tự Đức 33 (24-11-1880) nhị thập nhất nhật (21-8), tuế thứ Canh Ngọ (năm 1810).( 2)- Sắc chỉ: Hoài An huyện, Thượng Tiết xã: Tòng tiền phụng sự Tiền Ngô Vương. Năm Minh Mệnh nhị niên (2), Thất nguyệt , thập ngũ nhật (15-7). tuế thứ Tân Tỵ (năm 1821). ( 3)- Sắc chỉ: Ứng Hòa phủ, Hoài An huyện, Trinh Tiết Tổng, Thượng Tiết xã. Tòng tiền phụng sự Tiền Ngô Vương Năm Tự Đức nguyên niên, nhị nguyệt, thập nhị nhật (20-1), tuế thứ Mậu Thân (năm 1848). (4)- Sắc chỉ: Hà Nội tỉnh, Hoài An huyện, Thượng Tiết xã: Tòng tiền phụng sự Tiền Ngô Vương, Năm Tự Đức lục niên (6), chính nguyệt, thập tứ nhật (14-1), tuế thứ Quý Sửu (năm 1853). ( 5). Sắc chỉ: Mỹ Đức đạo, Hoài An huyện, Thượng Tiết xã: Tòng tiền phụng sự Tiền Ngô Vương, Năm Tự Đức tam thập tam niên (33), Thập nhất nguyệt, nhị thập tứ (24-11), tuế thứ Canh Thìn (năm 1880). (6)- Sắc chỉ: Mỹ Đức đạo, Hoài An huyện, Thượng Tiết xã: Tòng tiền phụng sự Tiền Ngô Vương, Năm Đồng Khánh nhị niên (2), Thất nguyệt, sơ nhất nhật (1-7), tuế thứ Đinh Hợi (năm 1887). (7)- Sắc chỉ: Hà Đông tỉnh, An Đức huyện, Thượng Tiết xã: Tòng tiền phụng sự Tiền Ngô Vương, Năm Duy Tân tam niên (3), Bát nguyệt, Thập nhất nhật (11-8), tuế thứ Kỷ Dậu (năm 1909). (8)- Sắc chỉ: Hà Đông tỉnh, Mỹ Đức phủ, Thượng Tiết xã: Tòng tiền phụng sự Tiền Ngô Vương, Năm Khải Định Cửu niên (3), Thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật (11-8), tuế thứ Giáp Tý (năm 1924).
Bài và ảnh: Nguyễn Văn Chiến
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn