Song song với hệ thống ngày tháng năm Dương lịch, hiên nay ngày tháng năm Âm lịch cũng đang được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam, nó đặc biệt gắn liền với việc tổ chức các kỳ lễ hội, giỗ chạp và một số công việc khác.
Chúng ta cùng tìm hiểu một số vấn đề về Âm lịch nói chung và Âm lịch Việt Nam nói riêng.
1. Cơ sở tính toán lịch Việt Nam
Âm lịch Việt Nam là một loại lịch thiên văn, được tính toán dựa trên sự chuyển động của Mặt trời, Trái đất và Mặt trăng. Vì dựa trên cả hai yếu tố Mặt trời và Mặt trăng nên mặc dù gọi là Âm lịch nhưng lịch Việt Nam không phải là lịch thuần âm mà là Âm Dương lịch.
1.1. Ngày Âm lịch
Ngày âm lịch gồm có 12 giờ, đó là các giờ: Tý (23h - 1h), Sửu (1h - 3h), Dần (3h - 5h), Mão (5h - 7h), Thìn (7h - 9h), Tị (9h - 11h), Ngọ (11h - 13h), Mùi (13h - 15h), Thân (15h - 17h), Dậu (17h - 19h), Tuất (19h - 21h), Hợi (21h - 23h).
Như vậy, độ dài của ngày Âm lịch bằng với độ dài của ngày Dương lịch, tức đều kéo dài 24 tiếng đồng hồ. Tuy nhiên, ngày Âm lịch bắt đầu và kết thúc sớm hơn ngày Dương lịch 1 giờ. Cụ thể, ngày Dương lịch bắt đầu từ 0 giờ đến 24 giờ, còn ngày Âm lịch bắt đầu từ đầu giờ Tý đến hết giờ Hợi (tức từ 23 giờ hôm trước đến 23 giờ hôm sau).
1.2. Tháng Âm lịch và năm Âm lịch
Tháng Âm lịch là khoảng cách giữa hai điểm Sóc kế tiếp nhau.
Sóc là thời điểm hội diện, khi Trái đất, Mặt trăng và Mặt trời nằm trên một đường thẳng và Mặt trăng nằm giữa Trái đất và Mặt trời.
Chu kỳ của điểm Sóc là khoảng 29,5 ngày. Ngày chứa điểm Sóc được gọi là ngày Sóc, và đó là mồng 1, ngày bắt đầu của tháng Âm lịch.
Nếu hai điểm Sóc kế tiếp cách nhau 29 ngày thì tháng đó là tháng thiếu; còn cách nhau 30 ngày thì đó là tháng đủ.
1.3 Trung khí và Tiết khí
Người xưa chia vòng Hoàng đạo (tức quỹ đạo Trái đất quay quanh Mặt trời mà người xưa cho là Mặt trời quay quanh Trái đất) thành 12 phần bằng nhau gọi là 12 Cung Hoàng đạo và quy định rằng Mặt trời cứ đi vào nửa Cung Hoàng đạo thì có một Tiết tương ứng. Lúc Mặt trời bắt đầu đi vào Cung Hoàng đạo gọi là Trung khí, còn lúc Mặt trời tới giữa Cung Hoàng đạo gọi là Tiết khí. Như vậy có tất cả 12 Trung khí và 12 Tiết khí, gọi chung là 24 Tiết khí.
24 Tiết khí trong năm gồm: Lập xuân, Vũ Thủy, Kinh trập, Xuân phân, Thanh minh, Cốc vũ, Lập hạ, Tiểu mãn, Mang chủng, Hạ chí, Tiểu thử, Đại thử, Lập thu, Xử thử, Bạch lộ, Thu phân, Hàn lộ, Sương giáng, Lập đông, Tiểu tuyết, Đại tuyết, Đông chí, Tiểu hàn, Đại hàn(*).
Trong 24 tiết khí thì 12 Trung khí đặc biệt dùng để tính lịch, còn 12 Tiết khí kia chỉ đánh dấu thêm thời tiết, mùa vụ trong năm. 12 Trung khí tính từ Đông chí (khoảng 21/12 Dương lịch) của năm này đến Đông chí năm sau vừa vặn một vòng quay của Trái đất quanh Mặt trời.
Để tính ngày tháng Âm lịch cho một năm bất kỳ người ta cần xác định những ngày nào trong năm chứa các thời điểm Sóc và các thời điểm Trung khí trong năm. Một khi đã tính được ngày Sóc sẽ biết được ngày bắt đầu và kết thúc của một tháng Âm lịch và khi đã biết ngày bắt đầu/kết thúc các tháng, người ta có thể xác định tên các tháng trong năm.
Cụ thể: người ta tính khoảng cách giữa 2 điểm Sóc ngay trước ngày Đông Chí thứ nhất và điểm Sóc ngay trước ngày Đông Chí thứ hai. Nếu khoảng cách này dưới 365 ngày thì năm Âm lịch đó có 12 tháng, và những tháng đó có tên là: tháng Một (11), tháng Chạp (12), tháng Giêng (1), tháng Hai (2), tháng Ba (3), tháng Tư (4), tháng Năm (5), tháng Sáu (6), tháng Bảy (7), tháng Tám (8), tháng Chín (9), tháng Mười (10).
Ngược lại, nếu khoảng cách giữa hai Sóc này trên 365 ngày thì năm Âm lịch đó có 13 tháng và là năm nhuận, điều cần là tìm xem đâu là tháng nhuận.
1.4 Tại sao Âm lịch có tháng nhuận và năm nhuận?
Chúng ta biết, với Dương lịch, một năm sẽ có 365 hoặc 366 ngày (đối với năm nhuận). Trong khi đó Âm lịch lại khác, chu kỳ quay của Mặt trăng quanh Trái đất chỉ là 29,53 ngày nên một năm Âm lịch chỉ có 354 ngày, so với năm Dương lịch ngắn hơn 11 ngày. Vì vậy, cứ sau 3 năm sẽ chênh lệch đến 33 ngày, tức là chênh nhau hơn 1 tháng. Vì thời tiết thay đổi theo Dương lịch mà mùa vụ lại tính theo Âm lịch nên để phù hợp giữa thời tiết và mùa vụ, cứ 3 năm Âm lịch sẽ có 1 tháng nhuận. Song cho dù thực hiện 3 năm nhuận 1 tháng thì năm Âm lịch vẫn sẽ chậm hơn năm Dương lịch vì 3 ngày còn dư. Người ta khắc phục tình trạng trên bằng cách cứ 19 năm lại có một lần cách 2 năm thêm một tháng nhuận, tức là cứ 19 năm thì có 7 năm nhuận, và 7 năm đó được quy ước vào các năm thứ 3, 6, 9, 11, 14, 17, 19 của chu kỳ 19 năm.
Vì vậy, muốn biết năm Âm lịch có tháng nhuận hay không, chỉ cần lấy năm Dương lịch tương ứng chia cho 19, nếu chia hết hoặc có các số dư là 3, 6, 9, 11, 14, 17 thì năm đó sẽ có tháng nhuận.
Ví dụ:
Xem năm Canh Tý 2020: ta lấy 2020 chia 19 được 106 dư 6, như vậy năm Canh Tý 2020 là năm nhuận (có 1 tháng nhuận).
1.5 Xác định tháng nhuận
Như trên đã biết, 12 Trung khí tính từ Đông chí của năm này đến Đông chí năm sau vừa vặn một vòng quay của Trái đất quanh Mặt trời.
Người xưa so sánh 12 tháng Âm lịch với 12 Trung khí để cho năm Âm lịch không bị lệch với thời tiết khí hậu. Nếu trong khoảng giữa hai Đông chí chỉ có 12 điểm Sóc tương ứng với 12 tháng Âm (tức mỗi tháng đều chứa một Trung khí) thì năm đó không có tháng nhuận. Còn nếu trong khoảng thời gian này có 13 điểm Sóc thì sẽ xuất hiện một tháng Âm lịch dư ra không tương ứng với Trung khí nào. Tháng đó sẽ là tháng nhuận.
Như vậy tính các điểm Sóc người ta biết được các ngày trong tháng, nhưng để biết tháng đó là tháng mấy thì phải tính thêm các Trung khí để biết có tháng nhuận trong năm hay không. Ngoài ra tháng Một (11) Âm luôn luôn chứa Trung khí có tên là Đông chí, đây là cơ sở để gọi tên các tháng khác.
Tổng quát lại, một năm Âm lịch có 12 tháng, mỗi tháng đều chứa một Trung khí, đó là năm thường. Năm Âm lịch có 13 tháng, trong đó có tháng không chứa Trung khí nào, đó là năm nhuận. Trong năm nhuận, tháng không có Trung khí là tháng nhuận, tháng này có tên trùng với tên tháng trước nó và thêm chữ “nhuận”. Nếu trong năm nhuận có hai tháng không có Trung khí thì tháng đầu tiên sau Đông chí là tháng nhuận.
2. Điểm khác nhau giữa lịch Việt Nam và lịch Trung Quốc
Quy tắc tính Lịch Âm Dương của Việt Nam, Trung Quốc và các nước Á Đông khác đều giống nhau, thống nhất với các quy tắc do Đài Thiên văn Tử Kim Sơn công bố 1984, chỉ khác nhau ở múi giờ tham chiếu. Cụ thể, Việt Nam sử dụng múi giời GMT + 7, kinh tuyến pháp định 105 độ Đông, còn Trung Quốc sử dụng múi giờ GMT + 8, kinh tuyến pháp định 120 độ Đông.
Sự khác nhau về múi giờ có thể dẫn đến sự khác nhau về điểm Sóc, tháng nhuận, ngày Tết hay ngày chuyển tiết giữa lịch hai nước . Một số nhà nghiên cứu cho biết, sau mỗi 23 năm sẽ có sự khác biệt giữa hai bộ lịch Việt Nam và Trung Quốc, tiêu biểu nhất là năm 1984, năm đó Tết Nguyên đán của Việt nam đến trước tết Nguyên đán của Trung Quốc cả 1 tháng.
Nguyên do là: Điểm Đông chí năm 1984 xảy ra lức 23 giờ 23’ ngày 21 tháng 12 gìờ Việt Nam, lúc đó là 0 giờ 23’ ngày 22 tháng 12 giờ Trung Quốc . Giữa hai điểm Đông chí năm 1984 và 1985 theo lịch Việt Nam chỉ có 12 điểm Sóc, tức không có tháng nhuận, còn do lệch một ngày mà giữa hai điển Đông chí theo lịch Trung Quốc lại có 13 điểm Sóc, tức năm đó có tháng nhuận (nhuận tháng 10) nên Tết Nguyên đán Trung Quốc đến muộn hơn 1 tháng.
Ngô Văn Xuân
(*) Người xưa đặt bài thơ về Tiết khí 4 mùa để dễ nhớ như sau:
Xuân Vũ Kinh Xuân Thanh Cốc thiên
Hạ Mãn Mang Hạ Thử tương liên
Thu Xử Lộ Thu Hàn Sương giáng
Đông Tuyết Tuyết Đông Tiểu Đại hàn.