Nhìn trên bản đồ vị trí thành Quèn ở giữa một khúc uốn của sông, kiểm soát được toàn bộ sự đi lại trên sông, thời xưa là thuỷ lộ quan trọng từ vùng đất quanh chân núi Ba Vì, Sơn Tây xuống vùng Ba Thá, Thượng Lâm, Miếu Mậu trên sông Đáy. Vì vậy mà thành Quèn có vị trí trọng yếu chốt giữ toàn bộ vùng này.
Thành Quèn ở thôn Cổ Hiền, xã Tuyết Nghĩa, huyện Quốc Oai, Hà Nội. Thành được sứ quân Đỗ Cảnh Thạc xây dựng từ thế kỷ IX. Trong chuyến điền dã cùng Viện Sử học Hà Nội về đây chúng tôi được nhân dân địa phương đón và dẫn đi khắp khu di tích. Di tích vật chất còn lại không nhiều, trong đó có đình Cổ Hiền và mấy ngôi miếu thờ nhỏ.
Nghe nói những năm 60 của thế kỷ trước, khu vực thành Quèn là một rừng cây, dân không được xâm phạm. Sau này dân số đông lên, chính quyền địa phương cho dân vào dựng nhà, đến nay những khu vực cao ráo nhà dân đã ken kín. Tường Thành bị đào lấy đất đắp nền nhà, đóng gạch nay hầu như không còn dấu tích. Tuy nhiên những người già trong Thôn vẫn nhớ như in từng vị trí. Con đường này là mặt Thành, đây là góc Thành, chỗ kia là cửa Thành. Nhiều địa danh vẫn được người dân truyền ngôn như gò voi, gò ngựa, gò đống thịt, kho lương... Người làng dẫn đoàn khảo sát đến một địa điểm gần bờ sông Tích, chỉ cho xem vết tích toà thành cổ.
Nhìn trên bản đồ vị trí thành Quèn ở giữa một khúc uốn của sông, kiểm soát được toàn bộ sự đi lại trên sông, thời xưa là thuỷ lộ quan trọng từ vùng đất quanh chân núi Ba Vì, Sơn Tây xuống vùng Ba Thá, Thượng Lâm, Miếu Mậu trên sông Đáy. Vì vậy mà thành Quèn có vị trí trọng yếu chốt giữ toàn bộ vùng này.
Trong khi mấy nhà khoa học trẻ của Viện Sử học Việt Nam đào, tìm những mảnh gạch, gốm được cho là tàn tích kiến trúc cổ, tôi theo chân mấy người trong đoàn đi ra phía bờ sông, nơi có ngôi miếu nhỏ thờ một khối đá gọi là Thạch Cổ linh. Cụ Hoàng Văn Giá, trông coi miếu, năm nay 75 tuổi cho biết, theo các cụ truyền lại, hòn đá đã ở đó không biết từ đời nào, dù có khiêng đi vứt thật xa thì sau một thời gian hòn đá lại tìm về nơi cũ như có chân vậy.
Đình làng Cổ Hiền là di tích quan trọng nhất còn lại ở thành Quèn, Đình nằm trên thế đất cao, thoáng đãng quay về hướng chính nam. Theo bô lão trong Làng, khi tôn tạo nhà đại bái đã thấy nhiều lớp móng cũ và nhiều nhiều phế tích của thành Quèn.
Đình Cổ Hiền thờ Tướng công Đỗ Cảnh Thạc. Ông Đỗ Huy Thơm, người trong Ban di tích giới thiệu với các nhà khoa học những thần phả và sắc phong của nhiều triều đại phong kiến, trong đó đạo Sắc mới nhất của vua Khải Định ghi ngày 25/7/ Giáp Tý (1924).
Theo nội dung những sắc phong còn giữ được, Đỗ tướng công húy là Cảnh Thạc, sinh ngày 14 tháng Giêng năm Nhâm Thân ( 912), cha là Đỗ Quảng Lăng, gốc người Quảng Đông ( Trung Quốc) dời cư xuống phương Nam, mẹ là Trần Thị Thọ thuộc Đỗ Động Giang, ấp Động, huyện Thanh Oai ngày nay.
Đỗ tướng công lúc thiếu niên là một cậu bé thông minh, khỏe mạnh. Năm 12 tuổi đã biết cưỡi ngựa bắn cung, Lớn lên trở thành một thanh niên võ nghệ siêu quần, kết giao với nhiều anh hùng hào kiệt, sau kết nghĩa huynh đệ với Ngô Quyền, trở thành người tâm phúc, lập nhiều công tích.
Năm Ất Mùi (935), Ông tham gia vào trận đánh đồn Bạch Hạc, chém chết chủ tướng Lương Ngột tại trận, thu được nhiều lương thực, khí giới, lừa ngựa.
Năm Bính Thân ( 936), ông lại thống lĩnh ba đạo binh: kỵ, bộ và thủy hạ Thành Đỗ Động, một giải từ Trấn sơn đến Trấn Đông Bộ sạch bóng quân thù, nhân dân một lòng qui phục dưới cờ.
Trong trận đại thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm Mậu Tuất (938), Ông chỉ huy đạo quân trấn giữ bờ hữu, chính ông là người bày mưu cho Ngô Quyền bắt sống tướng giặc Hoàng Thao. Từ đó, vua Nam Hán là Lưu Cung, chúa Nam Tấn là Tào Huyền Tích không dám nghĩ đến chuyện xâm lược nước ta nữa.
Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, ông lại giúp vua sửa sang lại việc triều chính, mở ra một thời thịnh trị. Khi Ngô Vương Quyền mất, Dương Tam Kha nhân cơ hội này cướp ngôi của cháu, Đỗ Cảnh Thạc và Dương Cát Lợi lại giúp họ Ngô giữ được ngôi vua. Nhờ thế Ngô Xương Văn lên nối ngôi xưng là Nam Tấn vương, Ngô Xương Ngập xưng là Thiên Sách vương.
Tháng giêng năm Nhâm Tí, vua xuống chiếu gia phong 12 vị công thần để vừa cai trị nhân dân các xứ, vừa giữ gìn giặc giã. Đỗ Cảnh Thạc, Dương Cát Lợi, Phan Truật làm Thái úy ngự lâm quân tại triều, giúp vua điều hành việc nước.
Sau khi Thiên Sách vương mất (954). Tháng 10 năm ( 963), Trần Lãm lại mưu phản, cáo ốm không về chầu, giao hết binh quyền cho con nuôi mình là Đinh Bộ Lĩnh. Năm 965, Nam Tấn Vương băng hà, trong nước không có ai làm chủ, 12 sứ quân mỗi người hùng cứ một phương. Đỗ Cảnh Thạc đem quân về giữ vùng Đỗ Động Giang.
Tháng 7 năm 966, Đinh Bộ Lĩnh sai hai tướng là Trịnh Tú và Lưu Cơ chỉ huy 10 tướng và 500 quân đến đánh úp thành Quèn. Đỗ Cảnh Thạc ngầm phục quân ở Quán Xanh đánh quân của Trịnh Tú, Lưu Cơ thua chạy.
Ngày 30 tháng 12 Đinh Bộ Lĩnh tiếp tục sai hai tướng Nguyễn Bặc, Đinh Điền đem theo 20 tướng và 600 quân kéo đến trại hạ tại gò Đống Thịt ( xã Quyết Nghĩa, Quốc Oai). Đỗ Cảnh Thạc cho quân bí mật bao vây, trong quuân mỗi người mang theo một nắm cơm, hẹn giờ Dậu ( chiều) cho quân giở cơm ra ăn, sang giờ Tuất ( tối) bốn mặt nhất tề xông vào đánh. Quân Nguyễn Bặc, Đinh Điền từ xa đến, người ngựa mỏi mệt, lại bị đánh bất ngờ, rối loạn giày xéo lên nhau mà chết. Biết không thể thắng bằng sức, Đinh Bộ Lĩnh phao tin cho Đỗ Cảnh Thạc biết là không thể đánh được thành Quèn thì đánh Bảo Đà, rồi điều số quân già yếu về Bảo Đà để nghi binh.
Đỗ Cảnh Thạc liền giao cho các tướng ở lại giữ thành rồi thân dẫn kỵ binh gấp đường đi chi viện Bảo Đà. Nhân lúc trời tối, Đinh Bộ Lĩnh chia quân 4 bốn đạo, mỗi đạo khoảng 2.000 quân đánh úp thành Quèn. Nhận được cấp báo, Tướng công dẫn quân quay về ứng cứu thì Thành Quèn đã thất thủ, bị đốt phá, tan hoang, hôm đó nhằm ngày 14 tháng 3 năm Đinh Mão ( 967).
Sau trận này Đỗ Cảnh Thạc tiếp tục giằng co với Đinh Bộ Lĩnh gần một năm trời. Cho đến ngày 8 tháng Giêng năm Mậu Thìn (968), trong một trận đánh ở núi Hoàng Xã ( nay thuộc thị trấn Quốc Oai), ông bị trúng mũi tên độc, chạy được về đến chân núi Sài Sơn ( núi chùa Thầy), thì mất, thọ 56 tuổi.
Thế cuộc tranh hùng với Đinh Bộ Lĩnh tuy không thành, nhưng sinh thời suốt 36 năm, Đỗ Tướng công đã đánh Đông dẹp Bắc, Một lòng khuông phò 3 triều vua Ngô, chống lại thù trong giặc ngoài, giúp vua sửa sang chính trị, giúp dân phát triển nghề nông tang, buôn bán làm ăn, mở ra thời kỳ độc lập, tự chủ của nước ta, chấm dứt hơn 1.000 năm Bắc thuộc. Cảm ân đức ấy nhân dân nhiều nơi lập đền miếu để thờ phụng.
Năm nay nhân dân và chính quyền xã Tuyết Nghĩa rất phấn khởi vì đình Cổ Hiền được nhà nước đầu tư hàng chục tỉ đồng để tôn tạo. Mùa xuân năm tới một cuộc hội thảo lớn sẽ được tổ chức ở Hà Nội để ghi nhận và làm sáng rõ những đóng góp tích cực của Sứ Quân Đỗ Cảnh Thạc trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm và xây dựng đất nước. Thật là một tin vui lớn đối với họ Đỗ Việt Nam.