Kị húy dưới thời nhà Nguyễn

Thứ bảy - 27/01/2018 19:02

Theo tục xưa, người dân Đàng Trong kỵ húy các chúa Nguyễn, do đó một số từ ngữ bị biến âm. Không chỉ biến đổi về âm mà còn áp dụng cả trong cách gọi tên các dòng họ.
Gia Long Nguyễn Phúc Ánh (ảnh: internet)
Gia Long Nguyễn Phúc Ánh (ảnh: internet)

Ngày nay trong ngôn ngữ tiếng Việt đặc biệt là khu vực miền Nam và miền Trung xuất hiện rất nhiều từ đồng nghĩa như: “cây cảnh - cây kiểng, bình hoa - bình bông,  hay hành chính - hành chánh”... Những điểm khác biệt này góp phần làm tiếng Việt thêm phong phú, tạo ra sự thích thú khám phá vùng miền. Quay ngược dòng thời gian lịch sử thì những từ ngữ này xuất hiện có liên quan tới việc kị húy trong thời phong kiến.

Kị húy là gì?

Kị húy hay còn gọi là kiêng húy  là cách viết hay đọc trại một từ nào đó do bị kiêng kị trong ngôn ngữ văn tự xã hội thời phong kiến. Từ đó đi đến chỗ kỵ húy đã trở thành một mệnh lệnh cưỡng hành ở cấp quốc gia trong lòng chế độ phong kiến. Vậy dưới sự thống trị của nhà Nguyễn, kỵ húy có những đặc điểm gì?

Nói đến vương triều Nguyễn, không thể không nhắc đến thời kì bản lề với các chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Cũng theo tục xưa, người dân nơi đây kỵ húy các chúa Nguyễn, do đó một số từ ngữ bị biến âm. Không chỉ biến đổi về âm mà còn áp dụng cả trong cách gọi tên các dòng họ, cụ thể như chữ “Hoàng” đổi thành “Huỳnh”, chữ “Vũ” đổi thành “Võ”... Thời điểm duy nhất người ta có thể gọi thẳng tên các chúa là trong khoảng thời gian vương triều Tây Sơn tồn tại.

Đến khi Nguyễn Phúc Ánh lật đổ Tây Sơn, lập ra nhà Nguyễn, lấy niên hiệu Gia Long, thì kỉ cương của việc kỵ húy được thiết lập trở lại. Và luật lệ liên quan đến việc kỵ húy trở nên độc đoán nhất dưới thời 4 vị vua đầu triều đại này.

Năm 1802, ngay sau khi đăng quang, Gia Long lập tức ra lệnh cấm trong cả nước, không ai được phép nói đến, đọc đến tên mình, mà phải nói chệch sang là Yếng (đến nỗi hơn một trăm năm sau, Hội thánh Tin Lành xuất bản báo của mình, vẫn phải đặt trại tên báo là Yếng Sáng). Không những thế, ông còn bắt kiêng thêm bốn tên thuở bé là Cốn, Cảo, Chủng và Noãn. Hoàng Thái tử Nguyễn Cảnh đã chết trước khi triều Nguyễn được thành lập, nhưng vua cha Gia Long vẫn yêu cầu phải đọc trẹo từ “Cảnh” sang Kiểng. Dần dà thành thói quen, ngày nay, nhiều nơi vẫn phải gọi cá cảnh là cá kiểng, cây cảnh là cây kiểng, và cả thời Việt Nam Cộng Hòa, lính cảnh (không phải ra trận, chỉ để trang trí, chạy giấy, phục dịch việc vặt…) cũng được gọi là lính kiểng. Gia Long còn bắt kiêng tên các thành viên trong Hoàng tộc, ngay cả tên con dâu 15 tuổi mới cưới về (là Hồ Thị Hoa) cũng phải tránh. Vì vậy, một loạt các địa danh phải đổi tên như chợ Đông Hoa phải đổi là chợ Đông Ba, cầu Hoa thành cầu Bông, trấn Thanh Hoa đổi là trấn (nay là tỉnh) Thanh Hóa, thậm chí vai tuồng Phàn Lê Hoa phải đổi là Phàn Lê Huê, hoa hậu đọc là huê hậu.

Năm Minh Mạng thứ 6 (1825) lệnh húy kị nói rõ nếu ai vi phạm sẽ chiếu luật vi chế xử tội nặng nhẹ tuỳ trường hợp. Những chữ liên quan đến tên vua chúa Nguyễn này trở thành quốc huý nghĩa là cả nước phải kiêng. Sau khi vua Minh Mạng công bố Ngự chế mạng danh  thì một vua Nhà Nguyễn có năm tên, bao gồm:

1- Danh tự: tục danh, tên do cha mẹ đặt khi sinh ra.

2- Ngự danh: tên chính thức khi lên làm vua lấy trong Kim sách.

3- Niên hiệu: tên của triều đại.

4- Thuỵ hiệu: tên đặt sau khi chết  dùng để khấn vái khi cúng tế.

5- Miếu hiệu: danh hiệu để thờ trong miếu và gọi trong sử.

Trong đó, danh tự và ngự danh đều là trọng huý, tuyệt đối không dùng và gọi. Khi vua mới lên ngôi, Bộ Lễ phải rà soát tất cả các địa danh trong nước, nơi nào trùng với danh tự và ngự danh phải lập tức xin đổi ngay.

Dựa trên giấy tờ của 40 lệnh kiêng còn sót lại, người ta đã thống kê ra được 531 lượt/chữ bị kiêng kỵ cấm húy dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong lịch sử trung đại Việt Nam ghi được 40 lần ra lệnh kiêng kỵ, riêng triều đình Huế của mấy vua Nguyễn đã chiếm tới 22 lệnh. Ông vua ra lệnh nhiều nhất và nhanh nhất là Thiệu Trị, trong 5 năm cầm quyền mà hạ đến 8 lệnh kiêng húy. Còn trong 22 lệnh này thì lệnh thứ tư của Tự Đức ban năm 1861 là nặng nhất, đạt tới mức kỉ lục khi phải kiêng tới 47 chữ!

Theo nhà sử học Lê Văn Lan, người Đàng Trong kỵ húy các chúa Nguyễn nên đã đọc biến âm một số từ ngữ sau:

Chữ Hoàng là tên chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) nên họ Hoàng phải đổi thành họ Huỳnh, Chữ "hoàng" cũng đọc là "huỳnh" (như lưu huỳnh).

Nguyễn Phúc Khoát là Vũ Vương, nên người họ Vũ đổi thành họ Võ.

Chữ "Phúc" là tên đệm trong họ Nguyễn Phúc của vua chúa Nguyễn, vì vậy "phúc" phải đọc thành "phước".

Chữ "Cảnh" là tên con cả Nguyễn Ánh (Nguyễn Phúc Cảnh, người được Nguyễn Ánh đưa sang Pháp làm con tin để đổi lấy sự giúp đỡ đánh Tây Sơn) nên "cảnh" phải đổi đọc là "kiểng".

Chữ "Kính" là tên Nguyễn Hữu Kính (Nguyễn Hữu Cảnh), người khai lập Sài Gòn, nên "kính" phải đọc chệch là "kiếng" vì vậy  "tấm kính" gọi là "tấm kiếng".

Chữ "Tông" là tên Nguyễn Phúc Miên Tông, tức vua Thiệu Trị (cháu nội Nguyễn Ánh), nên "tông" phải đọc là "tôn". Chính vì lý do này,  một loạt sử sách chép miếu hiệu các vua như Lý Thánh Tông, Lê Thánh Tông, Trần Thái Tông, v.v... đều ghi là Lý Thánh Tôn, Lê Thánh Tôn, Trần Thái Tôn, v.v... Đến mãi sau này một số sách sử thời hiện đại vẫn bị ảnh hưởng, chép miếu hiệu các vua từ "Tông" thành "Tôn". Các tên đường phố tại miền Nam Việt Nam, mà tên gọi là miếu hiệu các vị vua, hiện nay cũng đa phần ghi Tông thành Tôn. Chẳng những thế, một dòng họ hoàng tộc, cũng vốn phải đọc là "Tông Thất", nhưng vì kiêng húy chữ Tông này nên lại đọc thành "Tôn Thất".

Chữ "Thì" là tên thủa nhỏ của vua Tự Đức (Nguyễn Phúc Thì) nên chữ "thì" đọc thành "thời".

Chữ "Nhậm" là tên chữ của vua Tự Đức (Nguyễn Phúc Hồng Nhậm) nên "nhậm" đọc thành "nhiệm"...

Ngày nay, xã hội hiện đại và dân chủ hơn, ngôn từ cũng trở nên phóng khoáng. Tuy nhiên, với vị trí là triều đại phong kiến cuối cùng của Việt nam, gần gũi hơn hết với thời cận hiện đại, các luật húy kỵ của triều Nguyễn để lại nhiều dấu ấn nhất định và vẫn được duy trì trong ngôn ngữ sinh hoạt của người Việt hiện tại.

Dưới đây là những chữ quốc húy dưới thời Nhà Nguyễn thường gặp:

Âm chính     Âm trại

Lĩnh                Lãnh

Chu                Châu

Thụ                 Thọ

Thư                Thơ

Dung              Dong

Hoàn              Hườn

Phúc              Phước

Ánh                Yên, Yếng, Ảnh

Chủng            Chưởng

Đang              Đương

Đảm               Đởm

Kiểu               Cảo

Hoa                Huê

Thật               Thiệt

Mân                Miên

Chính             Chánh

Tông              Tôn

Tuyền             Toàn

Hằng              Thường

Hạo                Hiệu

Nhậm             Nhiệm

Hồng               Hường

Thì                 Thời

Hài                 Hia

Chân              Chơn

Đường           Đàng

Cảnh              Kiểng

Lân                 Liên

San                 Sơn

Điều                Đều

Bài tổng hợp


 
 Từ khóa: kỵ húy, Nhà Nguyễn

Tổng số điểm của bài viết là: 10 trong 2 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 2 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Mã bảo mật   

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Liên kết website
Thống kê
  • Đang truy cập153
  • Máy chủ tìm kiếm6
  • Khách viếng thăm147
  • Hôm nay32,215
  • Tháng hiện tại78,650
  • Tổng lượt truy cập50,614,470
Đăng ký
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
Mã bảo mật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây